GIA
ĐÌNH và LÒNG ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN
-Chúa nhật lễ thánh gia thất
Lòng đạo đức bình dân là sáng kiến của gia đình, cộng đoàn tìm lối đi đạo, tìm
cách sống đạo và tìm đường giảng đạo nơi quê hương mình.
Qua bao nhiêu năm tháng tín hữu Việt Nam mang Tin Mừng
‘ngâm’ trong đạo trung, đạo hiếu, ‘tẩm với’ chữ tâm, chữ
tình cho Tin Mừng thấm đẫm văn hoá Việt thành thân, thành
quen, nên da nên thịt với dòng giống Việt. Kinh nghiệm
hàng ngàn năm của Giáo Hội chứng minh, những hình thức
đạo đức trong gia đình đã mang lại những thành quả phong
phú cho đời Kitô hữu. Từ kinh nghiệm này và dưới ánh sáng
của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tin rằng, lòng đạo đức này
có thể mãi góp phần lớn lao để thực sự đưa đức tin hội
nhập vào văn hoá phù hợp với những nét đa dạng của các
dân tộc và các châu lục (bài 8 Giáo Lý về gia đình, số
3). Lòng đạo đức bình dân đã quy tụ gia đình trước bàn
thờ Chúa nguyện lời kinh sáng tối, hát thánh ca, và nhắn
nhủ nhau sống đạo lý Chúa qua những bài đồng dao dễ thấm,
dễ cảm, dễ hiểu, dễ nhớ. Bên cạnh những cử hành phụng vụ,
lòng đạo đức bình dân hay ‘mở hội’ hành hương, ‘mở lễ trọng thể’. Tất cả “phát xuất từ kinh nghiệm tôn giáo và đức tin chân
thành không nghi ngờ của các Kitô hữu” (bài 8 Giáo Lý về
gia đình, số 4.1). Lòng đạo đức bình dân còn rủ nhau, Dù
ai đi vắng đâu xa, về lại họ nhà sám hối mùa chay. Và lòng
đạo đức bình dân cũng làm thành lề thói hiếu khách, với
những cách làm ơn, làm phúc giàu nhân ái. Trước lời khích
lệ của Uỷ Ban Giáo Hoàng về Gia đình, “Gia đình Kitô hữu
cần liên kết chặt chẽ với những hình thức đạo đức này”
(Giáo Lý về gia đình bài 8, số 4.4), theo hướng dẫn của
Giáo Hội và thấm cảm Lời Chúa, chúng ta, các gia đình cùng
về lại bầu khí sốt sắng ở quê mình xưa và nay để nghe,
để thấy và để cảm nghiệm, gia đình và lòng đạo đức bình
dân đang thi công những công trình đức tin lớn lao.
GIA
ĐÌNH VÀ CUỘC CHUYỂN GIAO ĐỨC TIN QUA LÒNG ĐẠO ĐỨC BÌNH
DÂN
Gia
đình là mảnh ‘Đất Hứa’ cho lòng đạo đức bình dân nuôi lớn
hạt giống đức tin trong đất màu văn hoá. “Việc
chuyển
giao những biểu hiện riêng của nền văn hoá từ cha mẹ
đến con cái. Nghĩa là từ thế hệ này đến thế hệ khác,
bao gồm
cả việc chuyển giao những nguyên tắc Kitô giáo. Trong
một số trường hợp, sự kết hợp này khăng khít đến độ
các yếu
tố đức tin Kitô giáo trở thành những yếu tố nội tại
của căn tính văn hoá một dân tộc” (LĐDBD&PV,
số 63, UBVH/HĐGMVN). Trong bối cảnh tam giáo Phật Lão
Khổng, với những điểm nhấn về nhân sinh, vũ trụ quan
đặc trưng
khác với Kitô giáo, nhiều gia đình Kitô hữu phân vân,
sống đạo thực tế là nỗ lực lội ngược dòng hay thả xuôi
dòng
với nền văn hoá dân tộc. Chẳng hạn, vang bóng một thời,
người đàn ông Việt có lúc bị giới hạn vào chữ ‘trung’
rất chật chội trong tương quan ‘quân thần’, ‘quân xử
thần tử,
thần bất tử bất trung’ mặt khác ông lại leo lên quá
cao trong tương quan ‘phu thê’, ‘trai năm thê bảy thiếp,
gái chính chuyên một chồng’. Và nữa, lối nhìn trọng
nam
khinh
nữ ‘nhất nam viết hữu thập nữ viết vô’ đã bao phen
gây khủng hoảng cho xã hội và vẫn còn để dấu sâu đậm mãi
tới hôm nay. Dĩ nhiên, như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan
Phaolô
II
nói, lòng đạo đức bình dân vừa phải nỗ lực chuyển tải
văn hoá vừa chuyển giao những nguyên tắc Kitô giáo
từ cha mẹ
đến con cái, từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Đây là
sứ mạng tế nhị, khó khăn. Không thể giản dị xác quyết,
sống
đạo là ngược hay xuôi với bối cảnh văn hoá dân tộc, nhưng chắc chắn lòng đạo đức bình dân sẽ gạn đục khơi trong để tín hữu sống
Tin Mừng không ngược dòng với đạo lý Chúa nhưng cũng
không thành kẻ lạ mặt giữa quê hương mình (sứ điệp
gửi Hội Nghị
Khoáng Đại Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, số 4).
A/
Bài học khai tâm Lòng Tin
Cha mẹ dạy ‘Đạo’ cho con
cái ngay từ thuở con còn thơ dại, ‘Có con gầy dựng cho
con, gọi là nối đức
tổ tông
dõi truyền’;
‘Uốn cây từ thuở còn non, dậy con từ thuở con còn
ngây thơ’ (ca dao), Cha mẹ dạy con bài học đầu tiên,
Chúa
không bao giờ vắng mặt trong mái ấm nhà mình:
-
“Ạ
Chúa đi con”
Theo
kinh nghiệm dân gian, cha mẹ sẵn sàng chuyển giao ‘Đạo’,
chuyển giao đức tin cho con khi
con chỉ
vừa
bập bẹ biết nói, chỉ vừa giao cảm được với mẹ bằng
đôi ba
tiếng ê a. Khi ẵm con đi qua trước bàn thờ, trước
tượng ảnh Đức
Mẹ, người mẹ thường ấn nhẹ đầu con xuống, “con
ạ Chúa đi”, hoặc, “con ạ Đức Mẹ đi”. Người mẹ kiên
tâm dạy
con làm
quen dần với ‘Chúa’ trên bàn thờ và gần gũi với
‘Đức Mẹ’, bà hay chỉ cho con: “Chúa Giêsu đang nhìn bé
kìa”, hay
là “Đức Mẹ đang mỉm cười với con đó”. Từng bước,
từng bước thầm, người mẹ cứ âm thầm làm người ‘mai
mối’,
cho tới
một ngày đứa con thơ tự biết cúi đầu khoanh tay
ạ Chúa, ạ Đức Mẹ là niềm vui oà vỡ ra xôn xao cả nhà.
Cha vui,
mẹ vui, anh chị em vui như mở hội trong lòng. Vào
sau những giờ kinh tối, nếu bé còn thức, người
mẹ sẽ ẵm
bé ra “trình
diện và ‘ạ’ cho cả nhà vỗ tay khích lệ. Không thể
coi đây chỉ là một ‘mánh nhỏ dạy con’ nhưng phải
thấy là
cả một
công trình của lòng đạo đức bình dân đang tiến
hành chuyển giao đức tin. Và đây là bước đầu con học ‘Đạo’,
học ‘tin’.
Niềm vui này hứa hẹn ngày mai, những đứa con lớn
khôn ra đời, cha mẹ sẽ an lòng hiểu với con rằng,
suốt cuộc đời
con sẽ chỉ biết ‘cúi đầu ạ Chúa’, thờ Chúa và dám
nói không với bất cứ quyền lực, lợi danh nào.
“Đức
Bà Chữa”
Khi con còn thơ, người mẹ Việt Nam rất
gần gũi con, nhất là lúc con đã lanh chân chạy nhảy,
mẹ không
lúc nào rời
mắt. Thời điểm này, gặp lúc con té ngã, bà vội
vã đến ngay đỡ con dậy và lên tiếng ngay thành
lời trấn
an
con: “Đức
Bà Chữa, Đức Bà Chữa...” Và mỗi lần ẵm con trong
lòng, con hít phải luồng gió lạnh, gió lạ, bé
hắt xì hơi
là mẹ cũng đáp ngay sau mỗi tiếng hắt xì, “Đức
Bà Chữa”. Người
mẹ hiểu “Đức Bà Chữa” là lời cầu xin Đức Bà bầu
chữa cho con mình nhưng trong kế hoạch đường
dài, “Đức
Bà Chữa”
cũng là một lối ‘truyền âm nhập mật’ gieo trồng
vào cõi
tâm con đức tin sơ khởi, là giới thiệu cho con
làm quen dần với Đức Mẹ. Cách nào đó, theo tâm
lý mộc
mạc, người
mẹ nghĩ, Đức Mẹ dễ giới thiệu hơn nên giới thiệu
Đức Mẹ cho con trước khi giới thiệu Chúa.
“Cháu
biếu ông”
Lòng nhân ái thực tế Chúa Giêsu dạy
trong Tin Mừng, gia đình tín hữu nào cũng nhớ nằm lòng,
“Vì xưa
tôi đói,
anh em cho ăn, tôi khát anh em cho uống, tôi
trần truồng anh
em giúp áo quần, tôi bệnh nạn anh em ghé thăm,
tôi tù đày anh em ghé nuôi” (x. Mt 25, 35).
Để việc chia
sẻ
bác ái
thành công trình chung của cả nhà, đặc biệt
thành lời nhắc nhớ cụ thể cho con cái, nhiều
gia đình
tổ chức
‘Kho Từ
Thiện’. Kho từ thiện nói cho lớn lao, cho văn
hoá tuy thực tế chỉ là cái hộp nhỏ để trên
đầu tủ,
đựng tiền
góp của
cha mẹ và các anh các chị, để dành chia cho
những người nghèo. Chuyện đáng nói là những
đứa em
nhỏ trong nhà
cũng được góp phần. Dĩ nhiên các em không có
tiền để góp nên
phải góp công. Mỗi lần có bóng người ăn xin
đi ngang là các ‘phần vụ’ khởi động. Người
lớn sẽ
mở hộp lấy
ra số
tiền chi viện theo ‘nghị quyết’ đã ban hành
(Chẳng hạn khi kho từ thiện đang sung túc,
mỗi người
ăn xin sẽ được
chia năm ngàn, gặp lúc eo hẹp chỉ chia hai
ngàn, hoàn cảnh đặc biệt có thể chi nhiều hay
rất nhiều).
Số tiền
chi viện cho
‘kẻ khó’ sẽ do chính em bé trong nhà trao tay
với thái độ và lời nói vừa thân tình vừa trân
trọng: “Cháu biếu
ông” hay “biếu bà”. Đặc biệt công trình chung
này sẽ được thông tin chi tiết vào giờ kinh
tối. Chẳng hạn mẹ hay bố
vừa thông tin vừa khích lệ: “hôm nay bé Ngân
đã thay mặt nhà mình giúp năm ngàn cho một
người mẹ nghèo đi ăn xin,
hoan hô lòng tốt của bé và cả nhà”. Như thế
là bé Ngân đã được khích lệ tinh thần nhân
ái của Tin Mừng ngay từ
lúc bé còn trong ‘trứng nước’. Bé sẽ quen dần
với nề nếp nhân ái của lòng đạo đức bình dân.
Chúng ta có quyền chắc
dạ, trong truyền thống đạo đức của gia đình,
mọi ngưòi chẳng lo cá không ăn muối cá ươn,
Con cưỡng cha mẹ trăm
đường con hư.
B/
Bài Học Cầu Nguyện Buổi Tối
Trong
Tông Huấn Gia Đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn
mạnh: “ngoài các kinh sáng
tối, cần đặc
biệt khuyến
khích [...]: đọc và suy niệm Lời Chúa,
chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích, tôn kính và dâng mình
cho Thánh
Tâm
Chúa Giêsu,
thực thi những hình thức sùng kính khác
nhau đối với Đức Mẹ, cầu nguyện nơi bàn ăn, làm
các việc
đạo đức
bình dân”
(Tông Huấn Gia Đình, số 68). Có một dạo,
các bạn trẻ ngán ngẩm giờ kinh nguyện buổi tối
trong gia
đình,
thấy như
‘một giờ lao động công ích’. Vắng mặt không
xong nhưng có mặt phải đối mặt với những
chuỗi ‘kinh
kệ’ lê thê,
hết kinh cầu này tới kinh cầu khác, dứt
chuỗi hạt này sang
chuỗi hạt kia, vừa chán chường vừa buồn
ngủ nên có cơ hội trốn là trốn ngay. Hơn nữa
nhiều lời
kinh
có thể
gây ấn
tượng đen tối. Có bạn kể, thỉnh thoảng
vào tuần lễ tang, lễ giỗ cả nhà đọc kinh Vực
Sâu, kinh
Bởi Lời
là bạn rùng
mình nổi da gà, thấy lòng hoang mang hãi
sợ, khi hình dung: người thân, người quen đang
đắm chìm
trong cảnh
tăm tối,
thê lương. Ngày nay trước nhu cầu công
việc, hoặc do sức
ép bài vở từ trường lớp của con cái, phần
lớn phụ huynh đã giảm bớt ‘đề cương’ kinh
nguyện buổi tối. Tại nhiều
gia đình không biết từ hồi nào tự nhiên
biến mất giờ kinh tối, chỉ còn mạnh ai nấy đọc,
có khi chỉ đọc vội ‘ba kinh
Kính Mừng làm giá’ để được Đức Mẹ cứu khỏi
lửa hoả ngục (x. sách Tháng Đức Bà). Tuy
nhiên nhiều gia đình vẫn còn
giữ truyền thống tốt đẹp, sau một ngày
vất vả lao nhọc hay học hành, cả nhà tạm gác
bỏ một bên hết mọi gánh gồng,
lo toan cùng xum họp nhau trước bàn thờ
Chúa nguyện kinh tối. Mọi người hoà lòng với nhau
dâng lên Chúa, ngỏ với
Đức Mẹ những kinh nguyện truyền thống như
kinh Dâng Gia Đình cho Trái Tim Chúa, Kinh
Kính Mừng, Kinh Lạy Nữ Vương,
tất cả là những kinh nguyện đã bám rễ sâu
trong lòng đạo đức của Giáo Hội từ rất
lâu đời. Ngoài những kinh truyền
thống, gia đình còn dành ít phút nghe một
câu, một đoạn Thánh Kinh làm ý lực sống
cho mỗi ngày. Nhiều gia đình
kết thúc giờ kinh chung bằng những lời
cầu nguyện xuất phát từ tâm tư mỗi người và cầu
lớn tiếng cho cả nhà dự phần. Tại một số gia đình, các con đã đi ở riêng cũng rủ nhau nguyện kinh tối
đúng giờ hẹn trước, như để hoà lòng tạ
ơn Chúa và hiệp thông tình thân cha mẹ
với con
cái, anh chị em với nhau,
gìn giữ và nâng đỡ lòng tin của nhau. Một
số gia đình tổ chức lần ‘chuỗi mân côi
sống’ cầu cho nhau và cầu cho ông
bà, tổ tiên đã qua đời: Mỗi gia đình trong
đại gia đình nhận một ngắm với mười kinh
Mân Côi, chia sao cho đủ 5
ngắm của một mùa Vui hoặc mùa Sáng, mùa
Thương hay mùa Mừng. Những ‘chuỗi Mân Côi
sống’
cho gia đình cảm nghiệm
mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội, hiệp
thông giữa các thành phần của gia đình,
Giáo Hội tại gia, hiệp thông giữa
người sống và người chết, hiệp thông giữa
các thánh với người trần gian. (Đời mình
một chuỗi Mân Côi; hạt Thương
hạt Sáng hạt Vui hạt Mừng...). Về giữa
gia đình, cầu nguyện chung với nhau giờ
kinh
tối đúng là ‘hồi hương’, về lại
nhà để múc kín sức mạnh của lòng tin, củng
cố tình thân, hoà giải những bất bình.
C/
Bài Học Sống Những Biến Cố Vui Buồn
“Quả
thật chính đức tin đã mang lại những tập quán và những
thực hành của lòng
đạo đức bình
dân. Điều
này rất
phù hợp
với vai trò làm cha mẹ trong việc phát
triển và trao ban cho con cái tinh
thần kiên vững,
đơn sơ
của lòng
đạo đức
này và thể hiện cuộc sống tương giao
với Thiên Chúa không chỉ trong hình thức phụng
vụ nhưng
còn cả trong
mọi tình
huống của cuộc sống hàng ngày” (Bài
8 Giáo lý về gia đình, số 4,6).
Lễ
Tơ Hồng
Lễ Tơ Hồng là theo sự tích Trung Hoa,
đời Đường, có một người tên là Vi
Cố đi chơi
đêm trăng,
gặp một cụ
già
đang ngồi lần rở một quyển sách dưới
bóng trăng, tay cầm một
nắm dây tơ màu hồng, hỏi thì cụ cho
biết, cụ là Nguyệt Lão chuyên lo việc xe duyên
cho vợ
chồng
nhân gian,
dây tơ hồng cụ cầm tay để cột chân
hai người làm vợ chồng.
Cụ bảo, theo cuốn sổ này, có cả tên
họ của người vợ tương lai của anh. Hiện
người này
là đứa con
gái nhỏ
của một
người ăn xin ngoài chợ (‘Đất Lề Quê
Thói’ của Nhất Thanh, Nxb. VHTT, 2001, Trang
404). Sự
tích Tơ
Hồng diễn tả
quan niệm duyên phận trong hôn nhân,
‘Thân em như hạt mưa rào,
hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn
hoa’ hoặc phận gái mười hai bến nước đục,
trong. Trong
nhờ đục
chịu’. Trước quan
niệm này, hôn nhân Kitô giáo vào
cuộc, đã tách Nguyệt Lão ra khỏi vòng xe
đan tơ hồng
tuy
giữ lại kiểu
nói
văn chương
xe duyên kết phận, nhưng quan trọng
là lòng đạo đức bình dân đã mang Chúa vào
lãnh công
trình
xe duyên
kết phận
đôi hôn nhân. Đây không phải chuyện
ỡm ờ mây gió của Ông Tơ
Bà Nguyệt nhưng đúng như lời xác
định trong Bí Tích Hôn nhân, “Điều Thiên Chúa đã
kết hợp, con người không được
phân ly” (x. Mc 10, 9). Và cũng quan
trọng: nét đặc trưng mới mẻ của cuộc xe duyên Kitô
giáo là ‘con người không
được phân ly’. Theo đấy, ngoài Thánh
Lễ Hôn Nhân với cuộc chứng hôn cử hành tại nhà thờ
họ đạo, cuộc hôn nhân còn
thêm những nghi thức tôn giáo nhiều
ý nghĩa, rất cảm động và đậm màu sắc văn hoá dân
tộc. Nói chung, ngày nay nghi
thức đưa, đón dâu rể của các cặp
hôn nhân Kitô giáo luôn bắt đầu bằng những lời cầu
nguyện giữa đông đủ họ hàng,
người thân, người quen đôi bên, xin
Chúa chúc phước lành cho cô dâu, chú rể. Lời cầu
nguyện thường được xướng cất
do một vị cha bác vị vọng của đàng
trai hay đàng gái và được cả cộng đoàn đáp nguyện.
Hoà với những lời cầu nguyện
là những bài thánh ca mang ý nghĩa
xin ơn và tạ ơn Chúa cho đôi tân hôn. Thêm vào đó
là lời nhắn nhủ của cha mẹ
đôi tân hôn, khuyên đôi bạn sống
theo mẫu gương của Thánh Gia: Thánh Giuse, Đức Mẹ
và Chúa Giêsu và những lời chúc nguyện tốt đẹp.
Lễ
Tang
Chúng ta tin, ‘cuộc sống con người
thay đổi chớ không mất đi và khi
nơi nương
náu ở trần
gian
này thay
đổi, họ lại
được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên
trời’(x. Dt 11, 16) khác hẳn với
lối nhìn chung
của dân mình:
‘Kiếp
này duyên
đã lỡ duyên, kiếp sau xin hẹn cửu
tuyền gặp nhau!’ (ca dao). Dù khác
biệt nhau
về niềm
tin, lòng
đạo đức bình
dân rất đồng cảm với những lối
diễn tả, những tâm tình về nỗi chết với
cách gìn
giữ tình
cảm sâu
đậm cho người
quá cố. Từ đó tang lễ tại gia và
việc tưởng nhớ người quá cố đã
hội nhập
tốt đẹp một
số nghi
thức văn hoá
địa phương:
với niềm tin tưởng vào thế giới
bên kia, thế giới của những người đã
khuất, người
lương
dân luôn
làm sống
động mối
liên lạc với ông bà tổ tiên bằng
việc cúng quả, hương đèn mỗi ngày
trước
di ảnh người
quá cố
và ghi nhớ
ngày giỗ
cùng với nghi thức tưởng niệm.
Riêng tín hữu cũng có thể đón nhận những
nghi thức
tương
tự như thắp
nhang
trước
quan tài, trước hương án tổ tiên
như lời minh định lòng tin vào
Đức Kitô
Phục Sinh
và lời
hứa của
Chúa: “Chính
Thày là
sự sống lại và là sự sống. Ai tin
vào Thày thì dù có chết cũng sẽ
được sống. Ai tin vào Thày sẽ không
bao giờ phải
chết” (Ga 11, 25-26). Ở đây tín
hữu còn ý thức rõ, thắp nhang trước
thi hài hay di ảnh người quá cố
không có nghĩa
một lối nhìn nhận, đánh giá về
vận mệnh thiêng liêng của ai. Vận
mệnh của mỗi người chỉ mình Chúa
biết. Nhưng tin
vào lòng nhân lành Chúa, tín hữu
luôn dâng lời nguyện cầu cho mọi
người quá cố. Hơn nữa vào những
ngày giỗ, những
dịp tưởng niệm tín hữu không quên
cầu nguyện, xin lễ, dự lễ cầu cho
tổ tiên, ông bà. Đặc biệt dịp lễ
Các đẳng Linh
Hồn các gia đình thường rủ nhau
đi ‘đất thánh’ sửa sang mộ phần
người thân, chưng bông hoa và đặt
nhang đèn trên
mộ phần. Đúng ngày lễ (2 tháng
11) con cháu từ các nơi về dự lễ
cầu nguyện. Với những họ đạo có
nghĩa trang riêng
và có điều kiện thuận tiện, thánh
lễ cầu cho các đẳng sẽ cử hành
ngay tại nghĩa trang. Nếu có nhà
hài cốt, thánh
lễ cũng cử hành tại đây. Ở nhiều
nơi mỗi tháng có thánh lễ tại nhà
hài cốt với nhiều thân nhân dự
để cầu cho người đã khuất. Những nề nếp này đều phản ảnh lòng tin sáng tỏ vào tín điều ‘các
thánh cùng thông công’. Đối với
những người quá cố, lòng đạo đức
bình dân được biểu thị bằng nhiều
cách, tuỳ theo
nơi chốn và những truyền thống
khác nhau. Đặc biệt có thể kể:
tuần cửu nhật cầu cho những người
đã qua đời, chuẩn
bị cho Lễ Các Linh Hồn ngày 2 tháng
11, viếng Nghĩa trang: việc này
có thể được thực hiện một cách
cộng đồng, như
vào ngày Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu
Đã Qua Đời (LĐĐBD&PV, số 260).
Lễ
Khấn Xin
“Còn có những hình thức khác của
lòng đạo đức bình dân như cầu
nguyện nhóm,
lần chuỗi
trong
gia đình,
...xin
khấn cầu nguyện cho mưa thuận
gió hoà hay giữ gìn chở che cho
khỏi tai ương hoạn nạn” (Bài
8 Giáo lý về gia đình, số 4,5). Một
người
thân
lâm bệnh
nặng,
một vụ cháy
nhà,
một cơn bão sắp ập tới, một cuộc
động đất, một cuộc chiến đang
đe doạ bùng nổ... Nói chung bất
cứ cảnh khốn khổ, nỗi bất trắc
nào xẩy
ra trong
gia đình
hay ở một
địa phương
đều
làm mọi người lo lắng, hãi sợ.
Giữa cơn lo sợ vô vọng, lòng
đạo đức bình
dân
luôn dẫn
tín hữu
tới
những lời
cầu nguyện, cầu nguyện cá nhân
hay gia đình hoặc nhiều gia
đình họp nhau cầu nguyện xin
Chúa cho tai qua nạn khỏi. Ý khấn xin
của gia
đình có
thể thông
báo
cho một nhóm
gia đình cùng hiệp ý xin hoặc
quy tụ nhiều gia đình để khấn
nguyện chung. Ai cũng hy vọng
lời cầu nguyện của nhiều người đáng
được Chúa
lắng nghe,
‘một hạt
kinh chung
bằng một thùng kinh riêng’, như
lời Chúa Giêsu đã hứa, “khi
anh em hai ba người tụ họp lại
cầu nguyện nhân danh Thày, Thày
sẽ
? giữa họ” (x. Mt 18, 20).
GIA
ĐÌNH VÀ CUỘC TIẾP NHẬN TRUYỀN
THỐNG ĐẠO ĐỨC
Gia
đình là Giáo Hội tại gia, nhưng trong tương quan với
Họ đạo, gia
đình là thành
phần của
Họ đạo, một
Giáo Hội
Địa Phương thu nhỏ. Trong
tình cảm Họ đạo được nhìn như ‘đất
tổ quê
hương’ của các
gia đình.
Nơi đây
có ngôi
giáo đường thân quen luôn
ấp ủ cộng đoàn
trong những cảnh vui
buồn, những bước thăng trầm
và ghi nhận bao nhiêu biến
cố phúc
hạnh
của những
người con
trong các
gia đình.
Từ những ngày họ còn bế ngửa
lãnh Bí Tích Rửa Tội sang
thời thơ ấu Xưng tội, Rước lễ lần
đầu
(vỡ lòng) rồi được Thêm Sức,
Bao Đồng.
Nơi đây các
gia đình
nhận được
sức sống,
ơn thánh từ các Bí Tích và
họp nhau thành cộng đoàn
phụng thờ,
tạ ơn
và ngợi khen
Thiên Chúa.
Đàng khác
cũng nơi
đây, “các gia đình được tiếp
nhận nhiều hình thức khác
nhau của lòng
đạo đức
bình dân
thể hiện trong
suốt
Năm Phụng Vụ và đặc biệt
trong Mùa Chay, Tuần Lễ Thánh và
Tam Nhật Vượt Qua. Ngoài
những dịp lễ đặc biệt, còn những
thể hiện lòng đạo đức bình
dân tương
quan với Đức Trinh Nữ Maria,
các tín hữu
đã qua
đời và các
Thánh”
(Bài 8 Giáo
lý về gia đình,
số 4.3).
A/
Mùa Tĩnh Tâm Và Sám Hối
Mỗi năm vào mùa Vọng và
mùa Chay các gia đình nô
nức
chuẩn bị
tâm hồn đi
dự tuần
tĩnh tâm
và sám
hối tại
nhà thờ Giáo
họ để chuẩn bị mừng Chúa
Giáng Sinh hoặc mừng Chúa
Phục Sinh.
Đây là
những biến
cố đỉnh cao
trong
cuộc đời Chúa
Giêsu được Phụng Vụ nhấn
mạnh, và nơi các gia đình,
được vợ
chồng nhắn
nhủ
nhau,
cha mẹ nhắc
nhở con
cái. Khi
mùa tĩnh tâm sám hối về,
khung cảnh Giáo họ náo
nhiệt hẳn
lên và bầu khí các gia
đình sốt sắng
khác thường. Vào mùa sám
hối các gia đình
cố sắp xếp
công việc nhà
cho con
cái thư
thái tham dự tĩnh tâm.
Nhiều người cũng tạm hoãn
những
chuyến làm
ăn xa, ở nhà
lo ‘sám
hối’. Không
khí Giáo
họ như làm ‘căng thẳng’
hơn, có vẻ gây sức ép tâm
lý nặng
hơn cho những người con
chưa sẵn sàng sám hối hay
không
sẵn lòng
trở về.
Tuần tĩnh
tâm sám
hối thường
trở thành
điểm khởi đầu cho cuộc
hồi hương của đứa con hoang
trở
về nhà
cha. Vào Mùa
Tĩnh
Tâm Sám
Hối, tự nhiên
lòng người
hồi tưởng đến sứ điệp lòng
khoan dung và tha thứ của
Thiên Chúa:
dụ ngôn
Người Cha
Phung
Phí (tên
gọi mới
của dụ ngôn
Người Con Hoang Đàng),
dụ ngôn Ông Vua Tha Nợ...
Vào Mùa Sám Hối, nếu những
người con trong nhà vẫn
hờ hững đứng
ra bên lề giáo đường, từ
chối các Bí Tích, sẽ tự
nhiên thấy không yên lòng
và khát khao tìm một lối
về Hoà Giải.
Do đó trong ngôn từ bình
dân, người ta bảo, vào
Mùa Thánh này Giáo Hội
thường bắt được những ‘con
cá sộp’ từng bỏ
xưng tội có khi mười mấy
hai chục năm. Với những
cặp hôn nhân rối, mùa Tĩnh
Tâm Sám Hối thành những
mốc điểm cho
các anh chị dừng bước sám
hối và thực lòng tìm lại
nhịp sống hiệp thông với
Giáo Hội, với gia đình.
Tịnh
tâm và tịnh khẩu
Trong nhiều gia đình chẳng
hiểu tại sao vợ với chồng
hoặc cha
mẹ với
con cái
tự nhiên
khắc khẩu,
nói với
nhau dù
chuyện to hay chuyện
nhỏ cũng thành to tiếng, rồi
sang nặng
lời. Nặng
lời đến
cãi cọ và
cãi cọ thành
cãi vã
(vừa cãi, vừa vả!). Những
tình huống xuôi chiều
võ biền này
trong Mùa Tịnh Tâm sẽ
dễ bị bà con, xóm riềng nhân
danh
tinh
thần Mùa
Sám Hối
làm ‘khó
dễ’: “Các cháu
ạ, một
câu nhịn, chín câu lành,
mình đang trong Mùa Sám
Hối, các
cháu giữ lòng, giữ miệng
mà rước lễ!”
Đã hẳn ai biết tịnh tâm
là biết tịnh khẩu
nên
các gia
đình trong
xóm
đạo bớt những
cuộc xô xát, cãi vã.
Nghĩa là biết
nể Chúa, nể nhau hơn.
Sống Mùa Thánh các
gia đình
sẽ ý thức
rõ tình
liên đới
cộng đoàn trong hành
trình về Quê Trời, hành trình
với nhau
sẽ ‘biết
chị ngã
em nâng’.
Mọi người sẽ
không ngần
ngại theo Thày, cùng
với Thày lặn lội đi tìm và
vác về những
con
chiên xa
bầy (x.
Mt 18,
12). Thày
cũng
thuận
ý như thế như có lần
Thày ân cần nói với Phêrô, “Khi
anh
vững tin,
anh sẽ
làm vững
đức tin
cho anh em”
(x. Lc 22,
32).
Tại
tâm hay tại ngoại
Đáng
tiếc, một số giáo dân học nhiều, kiến
thức rộng
đã hờ hững
đứng bên
lề Mùa Tĩnh
Tâm Sám
Hối, không
hoà với
‘lòng đạo đức bình
dân’, viện lẽ ‘Đạo
tại tâm’.
Họ hay chê
đề tài
tĩnh tâm
bình dân,
chê người
hướng
dẫn tĩnh
tâm cũng bình dân!
Ai hiểu cho, trong
cuộc
tĩnh tâm,
không phải
lời con
người nhưng
chính Lời
Chúa được
công bố đã
tác động nơi tâm hồn
người tham dự. Có dạo
những nhà
trí thức
Công Giáo
ở Paris
xôn
xao khi nghe
tin, đông
đảo người
tới lắng nghe và thụ
giáo với một Linh Mục
học dốt
hồi ở
chủng viện,
đang
làm Cha Sở
Họ đạo
Ars. Đã
có người
nghĩ xấu: “Ông Cha
này dốt, chẳng hiểu
hết sự
tình, nguồn
ngọn
nên chuyện gì cũng
lý giải giản dị”. Họ
nghĩ
ngài
giống chiếc
chìa khoá
‘passe partout’
cái gì cũng
‘passable’.
Nhưng nghĩ thế là lầm,
những nhà trí thức
thành tâm muốn tìm
hiểu Cha Sở họ Ars,
sau khi
đi
thăm Cha
trở về đều
chẳng chịu mô tả, biện
luận gì, chỉ giản dị:
“Chúng tôi
đã gặp
được Thiên
Chúa”.
Dĩ nhiên
chẳng cứ
phải những
đầu óc thông minh bác
học mới là nhân chứng
Thiên
Chúa có
mặt. Một
Linh Mục ‘hai lúa’,
sống giữa họ đạo nhà
quê vẫn đúng là người
thắp lửa lên, ngọn
lửa của lòng sám hối
giữa một
cộng đoàn nhà quê đang
tịnh tâm. Và ai từ
chối quỳ gối, cúi đầu
tỏ lòng tôn thờ Chúa,
dửng dưng với kinh
nghiệm
chân thành về lòng
tin và sống đức tin
của cộng đoàn là từ
chối đồng hành với
Dân Chúa. Như thế ai
nghĩ, ‘đạo chỉ
là tại tâm’ là giản
lược Đạo thành một
ý tưởng, một lập trường
thuần lý, là xa rời
Lời Thày. Với Thày
đạo là chính
Thày để chúng ta tin
yêu và hy vọng. Đạo
là con đường tình Thày
đi cho chúng ta vác
thập giá đi với và
đi theo Thày:
“Ai muốn theo Thày,
xin vác thập giá mình
mỗi ngày và đi theo”
(x. Mt 16, 24). Và
tình yêu Thày dạy chúng
ta không
chỉ là lý tưởng trong
lòng ai nhưng ‘yêu
thương’ là xoa dầu,
bóp thuốc, xốc lên
ngựa, đem về quán trọ,
trả tiền
(x. Lc 10, 34), yêu
là cho người đói ăn,
người khát uống, giúp
người trần truồng áo
quần mặc, thăm hỏi
người yếu
đau, xách giỏ đi thăm
nuôi người bị tù (x.
Mt 25, 35). Và nói
theo nhà Bác học Pascal,
“Bạn cứ quỳ gối xuống
rồi bạn sẽ sám hối” (nguyên văn câu của Pascal: ‘Bạn cứ quỳ gối xuống rồi bạn sẽ
tin’).
B/
Mùa Dâng Hoa
Tháng Năm là tháng
Kính Đức Mẹ, cũng
là tháng
các nhà
thờ rước
kiệu Đức
Mẹ và dâng
hoa.
Nên thời
gian này
cũng gọi
là Mùa Dâng Hoa.
Vào Mùa Dâng Hoa,
Giáo
dân Việt
Nam thể
hiện lòng
sùng kính
và tình
cảm đặc biệt
với Đức
Trinh
Nữ Maria. Lòng sùng
kính Đức Maria không
chỉ là
cảm tính,
như ai đó
nhận định,
và có thời
nhiều
người
muốn bỏ tháng
kính Đức Mẹ (LĐĐBD&PV,
số 191). Hướng dẫn
về Lòng Đạo Đức Bình
Dân & Phụng Vụ phần ‘Lòng Sùng Kính Với Mẹ Thánh Của Chúa’ đã định hướng: Trên thực
tế, các tín hữu biết
rằng người Con là
Thiên Chúa, Chúa
của họ, và Đức Maria,
người Mẹ, cũng là
Mẹ của họ... Họ
cử hành các cuộc
lễ của Mẹ trong niềm
vui, sẵn lòng tham
gia các cuộc rước
kiệu tổ chức để tôn
vinh Mẹ và đi hành
hương đến những ngôi
đền cung hiến cho
Mẹ, họ thích hát
lên những bài ca
ngợi Mẹ và dâng lên
Mẹ lòng tôn kính
khi
phát nguyện những
khấn hứa (sđd số
183).
Dâng
hoa là một biểu hiện lòng sùng kính
Đức Mẹ đặc
trưng
của tín hữu
Việt Nam
vùng Đồng
Bằng Bắc
Việt.
Lễ dâng
hoa thường bắt
đầu bằng cuộc rước kiệu
Đức Mẹ
với chuỗi
Mân Côi và kết
thúc bằng Chầu Phép
Lành Mình Thánh
Chúa. Lễ dâng hoa
gồm
ba yếu tố:
vãn dâng hoa
(lời hát
khi dâng
hoa), múa dâng
hoa và tâm tình hiến
dâng.
Vãn dâng hoa thuộc
loại văn chương
dân dã tuy
không chải
chuốt mượt
mà nhưng
ngôn từ
thanh
nhã, sâu
đậm tình cảm.
Thí dụ: Chúng con
mọn mạy phàm hèn,
dám đâu
ngước
mắt trông
lên bàn thờ.
Đền
vàng quỳ
trước dâng
hoa, trông
lên tháp
báu thấy toà Ba
Ngôi. Vãn dâng
hoa theo
thể nhạc
ngũ cung
Việt Nam.
Với những
tiếng ngâm
nga ‘i,
a’ truyền
thống
văng vẳng, nhẹ
nhàng và cung kính.
Riêng
nội dung
các
bài vãn rất
sáng tỏ là những
lời chúc
tụng,
tạ ơn và
khấn xin
tâm thành. Tác
giả những bài vãn
này
chưa xác
định được
nhưng nhiều
người
nghĩ, họ
là những
nghệ sĩ
dân dã sống
giữa các xóm đạo
nhưng hiểu biết
giáo lý và
thông thạo
chữ nghĩa.
Điều đặc
biệt
là hầu
hết các
bài vãn hoa
ở miền Bắc cung
giọng, phần đoạn
giông giống
nhau.
Múa dâng hoa là
một điệu múa dân
gian
cổ truyền
gồm khoảng
từ 6
tới 12 cặp
con hoa,
thường
con hoa là
nữ không có
pha trộn nam nữ.
Các con hoa trang
diện
xinh đẹp,
trang
nhã, ở lứa
tuổi U15,
các em múa
dâng hoa
cho Đức Mẹ
trước tượng Đức
Mẹ trên kiệu hoa
đặt
giữa nhà
thờ. Điệu
múa luôn nhịp nhàng
diễn tả lời vãn.
Đội hình có thể
chuyển động thành
hình chữ
“M” (Maria),
chữ O (vương miện)
hay chữ + (thánh
giá).
Con hoa
có thể dâng
hoa hay dâng
nến theo
lời ca thích hợp.
Tâm tình hiến dâng
cô đọng trong nội
dung bài
vãn
và được con
hoa minh hoạ
theo.
Đáng chú
ý, khi
múa dâng
hoa, con
hoa sẽ nhịp nhàng
theo nhịp điệu
và đồng bộ
theo đội
hình. Đây
chỉ là mặt
nổi,
là ‘phụ
liệu’ của
đội hoa.
Nhưng nổi
bật là gia sản
đạo đức và văn
hoá trong
lễ dâng
hoa,
cũng
là nét
khác biệt
căn bản giữa
múa dâng
hoa trong
nhà thờ
và các điệu ca
vũ ngoài sân khấu.
Khi
vũ dâng
hoa, các
con hoa
tâm thành
diễn tả
tâm tình
dâng hiến
cuộc sống
cho Thiên Chúa
qua Mẹ Maria. Khi
dâng
hoa lên
Đức Mẹ
các em cảm
nhận khát
vọng vươn
lên cao
mãi với
Đức
Mẹ, Đấng
rất Thánh Thiện,
Từ Bi. Con hoa
trong vũ
dâng
hoa đúng
hơn đã
dâng hoa
qua một điệu
vũ, không
phải
diễn một
màn vũ dâng hoa.
Theo đó, người
tham dự làm
thành
với các con
hoa một cộng đồng
dâng hoa tặng Đức
Mẹ, trong
đó con
hoa chỉ
là người
đại diện.
Vì thế
người tham
dự không
là khán
giả dự khán nhưng
đúng là những người
trong
cuộc góp
mặt trong
lễ dâng
hoa. Những tâm
tình hiến
dâng trong
lễ dâng
hoa như:
Đội ơn Đức Mẹ cực
khoan
Dủ lòng bảo hộ
an khang phù trì
Đội ơn Đức Mẹ nhân
thay
Dủ thương vì chúc
tụng này cùng hoa
Chúng con lạy Chúa
Cha nhân thứ
Đã giữ lời phán
hứa dủ thương
Dựng nên Rất Thánh
Nữ Vương.
Tâm tình được diễn
tả bằng năm sắc
hoa (xanh,
đỏ,
trắng, tím,
vàng)
gọi là tiến
hoa năm
sắc, hoặc
bốn mùa hoa
(Xuân, Hạ, Thu,
Đông) gọi là tiến
hoa tứ
thời. Bài
vãn sẽ
được
kết thúc bằng ‘phần
tạ’(phần kết) diễn
tả tâm tình
tạ ơn và cầu xin.
C/ Mùa Lễ Hội
Dân gian Việt Nam
có hai mùa Lễ Hội
được
mọi gia
đình nô
nức đón
mừng:
Lễ Hội
Tết Nguyên
Đán và
Tết Trung
Thu (tết Đoan Ngọ).
Cả hai tuy đã phai
lạt ý
nghĩa ban
đầu và
lơ là
với những
nghi thức
nguyên
thuỷ nhưng vẫn
còn đó những cuộc
hội
họp tưng
bừng.
Hầu hết các gia
đình tín hữu
hôm nay
đều hoà
lòng tham
dự những ngày lễ
hội dân gian này
nhưng
đã thổi
vào các Lễ
Hội một
ý nghĩa
đạo đức mới. Cách
nào đó lòng đạo
đức bình
dân đã thay da
đổi thịt cho hai
Lễ Hội
dân
gian đây để thành những Lễ Hội đạo đức,
những thể hiện
sống động
của lòng tin
Kitô giáo.
Lễ Hội Tết Nguyên
Đán
Lễ Hội Tết Nguyên
Đán mừng năm mới
kéo dài
ít nhất
ba ngày đầu
năm mới
Âm Lịch
nhưng
cao điểm
là Lễ
Giao Thừa cũng
gọi là Lễ Trừ Tịch,
hiểu
là:
Trừ
là trao
lại chức quan, tịch là ban đêm. Hết giờ
Hợi sang giờ Tý
là bắt
dầu sang
ngày mới của
năm
mới.
Thời điểm
này gọi
là giao
thừa, dân làng
làm lễ trừ tịch
tiễn
thần Hành
Khiển
năm cũ, đón vị
thần Hành Khiển
năm mới để cầu
cho
dân chúng khang
an, thịnh
vượng (x. ‘Đất
Lề Quê Thói’,
của
Nhất Thanh, Nxb
VHTT, 2001, trang
328). Ý nghĩa nguyên thuỷ này đã được
rửa
tội để nhận ý nghĩa
mới theo
lối
nhìn của
đức tin
Kitô
giáo như được
ghi nhận
trong nghi thức
làm phép nến Phục
Sinh
trong đêm vọng Phục Sinh: Đức Kitô vẫn
là một, hôm qua
cũng như
hôm
nay là Alpha
và Omega,
nghĩa
là khởi
nguyên
và tận
cùng. Người làm
chủ thời gian và
muôn
thế hệ. Với dân
chúng, thời điểm
Giao Thừa
rất
được trân trọng.
Người ta thắp
nhang
vái tứ phương
để cầu khấn
Trời cho
một năm mới an
khang thịnh vượng,
còn
tín hữu Kitô giáo
bỏ lại sau lưng
tất cả mọi
chuyện
làm ăn, mọi toan
tính, lo lắng,
để thư thái tập trung trước bàn thờ Chúa tham dự lễ và hướng về Chúa là Chủ của
Thời Gian, là khởi đầu và cùng đích của vũ trụ và của mỗi người. Các gia đình
hợp lòng tạ ơn Chúa và cầu bình an cho năm mới. Đặc biệt xin cho gia đình luôn
biết vâng ý Cha dưới đất cũng như trên Trời. Với lương dân sau khi lễ bái ở Chùa,
mỗi người tìm tới một cành cây trong vườn chùa, hái một đọt lá, gọi là hái lộc
đầu năm cầu khấn Đấng Bề Trên ban cho may mắn suốt năm. Ngày nay ở một số nhà
thờ, sau Thánh Lễ, giáo dân được mời bước lên gian thánh hái ‘lộc Lời Chúa’.
Lộc đây là những tấm thẻ ghi sẵn một câu Lời Chúa được treo đầy trên các cành
lá của một thân cây. Giáo dân tin tưởng mỗi câu lời Chúa đều mang lại một điều
tốt đẹp cho người hái. Tấm thẻ Lời này sẽ được chưng tại một vị trí cao trong
phòng khách và thỉnh thoảng được đọc lại làm ý lực sống.
Lễ Hội Tết Trung Thu
Hầu hết những lễ hội dân gian đều nhắm
tới bậc ông bà, cha bác, thày cô như
Tết Đoan
Ngọ, tết
Trung
Nguyên (có
nguồn
gốc văn
hoá Bắc Phương
đã
được Việt
hoá
và thường phổ biến trong giới có bát
ăn bát để). Riêng các em thiếu nhi mừng
vui
được
làm khách
mời chính
của Lễ Hội
Tết Trung
Thu.
Tết Trung
Thu vào
rằm tháng Tám Âm Lịch tuy là thời điểm
năm học mới vừa bắt đầu, các em khá bận
rộn với việc học hành tại trường lớp,
nên bầu khí lễ hội có thể ít sôi động
nếu Lễ
Hội rớt vào một ngày thường trong tuần.
Tuy
nhiên Lễ Hội Trung Thu có thể được coi
là điểm nhấn
của lòng
đạo đức
bình dân
nơi các gia
đình
và Họ
Đạo. Lòng
đạo đức bình dân cảm hứng lòng Chúa trân
trọng yêu quý các em thiếu nhi, “Hãy
để các em đến với Thày, vì Nước Trời
thuộc
về những người nên giống các em” (x.
Mt 18,
3), đã biến
một lễ hội
dân gian
thành Lễ Hội
mừng tuổi
thơ dịp
rằm Trung
Thu. Lễ Hội Trung Thu tập trung vào một
thánh lễ dành riêng cho các em. Đề tài
thánh lễ
hướng tới
vũ trụ
quanh ta,
mặt trăng,
mặt trời
cùng muôn
tinh
tú là
quà tặng
Thiên Chúa tặng trần gian giúp các em khám phá, chiêm ngưỡng nét mỹ miều của
vũ trụ và lên lời tạ ơn, ngợi khen Thiên Chúa. Những cuộc rước đèn trung thu,
những cuộc hội diễn văn nghệ được tổ chức tại các khu xóm, nơi sân Thánh Đường
qui tụ các em thiếu nhi không phân biệt giàu nghèo, đạo giáo. Họp mặt với nhau,
các em chia sẻ nhau những bài hát ca ngợi bầu trời, bóng trăng, lòng người tươi
sáng và tình yêu Chúa vô bờ. Các em cũng được thân tình chia sẻ với nhau quà
bánh trung thu nhờ lòng tốt của bằng hữu xa gần giúp góp. Lễ Hội Trung Thu còn
giới thiệu với tuổi thơ một thoáng khuôn mặt thân thương của cuộc sống. Trong
đó có bầu trời trên cao với mặt trời, bóng trăng, mây đẹp, gió hiền và xung quanh
là bè bạn xóm riềng thân quen, là trường lớp, thày cô hiền hoà. Các em mong gặp
khuôn mặt cuộc sống không chỉ có một rừng ô tô, xe máy ồn ào, không chỉ có một
biển máy móc khô khan, vô tình, vô nghĩa cung cấp các games điện tử với những
khung cảnh ảo, nhân vật ảo. Bi kịch đang mở màn là các em trong đời thường sẽ biết trò truyện với máy, trên máy nhiều hơn gặp mặt người quen, nói chuyện
với người thân. Lễ Hội Trung Thu có thể coi là Lễ Hội giới thiệu khuôn mặt dễ
thương của cuộc sống trong đó có khuôn mặt tình yêu của Thiên Chúa và của mọi
người.
Lễ Hội Hành Hương
Khởi từ lòng đạo đức bình dân, từ lâu
Giáo Hội đã giữ truyền thống hành hương
tới
Đất Thánh,
mồ thánh,
đền
thánh, nơi
gìn giữ di tích
các Thánh
Tử Đạo...
Hành hương là những chuyến đi đạo đức
của các tín hữu để hình dung cuộc hành
trình
trên đường về quê trời. Theo ‘Hướng dẫn
về Lòng Đạo ĐứcBình Dân và Phụng Vụ’:
“khách hành hương
đi đến
đền thánh,
họ cũng được
hiệp
thông trong
lòng tin
và đức ái, không chỉ với những kẻ cùng
đi
với mình trong “cuộc hành trình thánh”
(Tv 84,
6), mà còn
với chính
Chúa nữa. Người
đồng hành
bên người
ấy, cũng như
Người đã từng đi bên cạnh các môn đệ
thành Emmaus”. Đàng khác những cuộc hành
hương
còn mang chiều
kích lễ hội.
Niềm vui
của cuộc hành
hương Kitô
giáo xuất
hiện như sự kéo dài niềm hân hoan mà
người lữ hành Israel đạo đức đã từng
cảm nghiệm.
“Vui
dường nào
khi thiên
hạ bảo tôi:
chúng
ta cùng
đi đến nhà
của Chúa!”
(Tv 122, 1). Niềm vui ấy cũng góp phần
phá vỡ sự đơn điệu của cuộc sống thường
nhật
khi tỏ
bày một
cái nhìn
về tương
lai
khác với
cái nhìn của
thế gian;
nó giảm
nhẹ trọng lượng thường đè lên cuộc sống, đặc biệt đối với người nghèo, là một
gánh rất nặng phải mang” (Sđd số 186).
Tuy nhiên trong thực tế, sáng kiến và
nhiệt tình của giáo dân không dựa vào
đức tin
thành khẩn,
chân thực,
có nguy
hiểm vượt
quá ranh
giới của
lòng đạo
đức bình
dân và sa vào mê tín. Sứ Điệp Của Đức
Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Gửi Hội
Nghị
Khoáng Đại
Bộ Phụng
Tự Và Kỷ Luật
Bí Tích (21
tháng 09
năm 2001)
đã
cảnh giác:
“Những cách biểu hiện của lòng đạo đức
bình dân đôi khi bị biến chất do các
yếu tố không
tương
thích
với giáo
lý Công
Giáo. Trường
hợp
này, cần
phải
thanh lọc
một cách cẩn thận và kiên nhẫn, qua những
cuộc tiếp xúc với người có trách nhiệm,
bằng một
cách giảng
giải giáo
lý cặn
kẽ và tế
nhị, ngoại
trừ những
điều bất hợp
lý đòi có những biện pháp rõ ràng và
tức khắc.
Theo một truyền thống đạo đức từ lâu
đời, trên đất nước chúng ta, mỗi năm
có từng
triệu chuyến
hành
hương của
tín hữu khắp
nơi tuôn
đổ về
các Đền
Thánh như Linh Địa La Vang, Trung Tâm
Thánh Mẫu Trà Kiệu, Nhà Truyền Thống
Văn
Hoá & Đức
tin... Đáng chú ý nhiều gia đình không dư giả nhưng chắt chiu để dành ra một
khoản chi cho phương tiện để mỗi năm gia đình đi hành hương tại các ‘thánh địa’.
Qua mỗi chuyến hành hương gia đình sẽ khám phá những bài học đạo đức: chia sẻ
nhau cơn khát, cơn đói, ly nước, chiếc bánh, chỗ đứng, chỗ ngồi... Gia đình khám
phá những cảm nghiệm cụ thể về cơn nắng, cơn mưa, chia sẻ nhau những giọt mồ
hôi, nước mắt trên ‘con đường đi theo Chúa đầy gian khó nhưng quyết tâm vượt
qua’. Chính tại ‘đất thánh’ hành hương, các gia đình hình dung được Giáo Hội
là đoàn lữ hành từ phương đông, phương đoài đồng hành với nhau và với Chúa tiến
về nhà Cha.
CHUYỆN NÀNG RÚT THAY LỜI KẾT
Trong tình cảm, những ‘Thánh Địa’ cũng
là ‘đất tổ quê hương’ của các Kitô
hữu. Với
các khách
tha hương,
rõ
ràng, tình
hoài hương
lúc nào
cũng cánh
cánh bên
lòng nên bao giờ có dịp họ lại khăn
áo lên đường hồi hương. Và quê hương có
xa xôi diệu
vợi, quê
hương vẫn
ấm cúng
tình nghĩa.
Hồi ấy
bà Naomi
nhất định
hồi
hương. Trước khi lên đường, bà ôm hôn
từ biệt hai cô con dâu người Moab khuyên
hai
con nên
ở lại
quê hương
với mẹ
mình,
làm họ oà
lên khóc, “Chúng
con muốn
cùng mẹ về với dân mẹ”. Bà ép mãi,
cô con dâu cả nghe lời nhưng cô thứ hai
là Rút
nhất định:
“Xin
mẹ đừng
ép con
bỏ mẹ, Mẹ
đi đâu, con
theo
đó, dân
của mẹ
là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là
Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu,
con chết ở
đó...” Thôi
thế, bà
cũng vui
lòng dẫn
Rút,
nàng dâu
út theo
về vùng
quê cũ
Belem. Ở đây hai mẹ con chân ướt, chân
ráo, Rút đi mót lúa trong cánh đồng
của một người
bà con
bên
chồng, ông
Booz
và được ông
ưu ái. Nàng
mót lúa
về nuôi
mẹ chồng. Về sau nàng được ông cưới
làm vợ và sinh được con trai để bảo tồn dòng
dõi
nhà.
Nếu những Nhà của Chúa, những Đền thánh
Đức Mẹ, Nhà Truyền Thống Văn Hoá & Đức Tin với di tích các Thánh Tử Đạo cũng là ‘Đất thiêng, đất tổ quê hương’
của mọi gia đình Kitô hữu, thì Rút
là người mẫu cho những ai mới đón nhận
đức tin dám dứt khóat dấn bước ‘hồi
hương’ với tấm lòng thành như Rút:
“Xin mẹ đừng
ép con bỏ mẹ, Mẹ đi đâu, con theo đó,
dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa
của mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết
ở đâu, con chết ở đó”. Và người mẹ
chồng của
Rút, bà Naomi đã thành người mẫu cho
những ai từng vắng xa ‘Nhà Chúa’, xa
Đền Thánh Đức Mẹ, lạ lẫm với những
di tích các thánh Tử Đạo, biết bỏ lại
sau lưng
tất cả để ‘hồi hương’, về lại nguồn
ngọn của chúng ta.
Từ nguồn ngọn đó, lòng đạo đức bình
dân giục giã chúng ta chọn quê trời
phước
hạnh, dìu
dắt chúng
ta hành
trình vượt
qua mọi
bước đường
khổ ải
và hẹn hò
chúng ta gặp Chúa, gặp ông bà tổ tiên,
và gặp đủ mặt nhau trong Nước Trời
vinh hạnh
như lời ca dao mộc mạc cảm hứng của
lòng đạo
đức bình dân:
Thiên đàng địa ngục đôi quê
Ai khôn thì về, ai dại thì sa
Đêm nằm nhớ Chúa nhớ cha
Đọc kinh cầu nguyện nhớ cha linh hồn,
Linh hồn phải nhớ linh hồn
Đến khi mình chết được lên thiên đàng? (Đồng Dao)
Lm. Trịnh Tín Ý - ( Đăng lại từ bản tin Hiệp Thông số 36 của HĐGMVN )