Suy niệm 10 phút Mỗi Ngày
 
 

LƯƠNG TÂM

+ Stephano Tri Bửu Thiên

Đối với con người ngày nay, lương tâm là một trong những vấn đề thường gây nhiều tranh cãi, nhưng cũng được rất nhiều người quan tâm tới. Người ta nói nhiều về lương tâm, bàn nhiều về lương tâm, đề cao vai trò của lương tâm trong cuộc sống của mỗi cá nhân cũng như của xã hội: hãy sống và hành động theo lương tâm! Nhưng lương tâm là gì? Giáo huấn Kitô giáo nói gì về lương tâm? Lương tâm là gì? Tự điển Webster’s Encyclopedic Unabridged Dictionary of the English Language đưa ra một số định nghĩa về lương tâm:

1/. Conscience: The sense of what is wright or wrong in one’s conduct or motives, impelling one toward right action: Let your conscience be your guide.

2/. The complex of ethical and moral principles that controls or inhibits the actions or thought of an individual. Tự điển Longman Dictionary Contemporary English, the Living Dictionary, định nghĩa về lương tâm như sau: Conscience: The part of your mind that tells you whether what you are doing is morally right or wrong. Tự điển Pocket Catholic Dictionary của John A. Hardon S.J, thì lương tâm là sự phán đoán của trí khôn thực hành. Sự phán đoán này dựa vào những nguyên tắc tổng quát của đức tin và lý trí để quyết định cách hành động này là tốt hay xấu. Một hành động đúng hay sai là dựa vào những nguyên tắc, những định luật khách quan. Những nguyên tắc, những định luật này không do con người, không do lương tâm con người sáng tạo ra, nhưng do chính Thiên Chúa, nhưng trí khôn con người có thể nhận ra và phải tuân theo [1]. Trong tác phẩm “La Légende des Siècles”, đại văn hào Victor Hugo đã cụ thể hóa lương tâm con người bằng hình ảnh của một con mắt tinh quái, đeo đuổi con người khi con người làm điều gian ác. Con mắt đó đã theo dõi Cain sau khi Cain giết chết em mình là Abel. Victor Hugo gọi lương tâm là “Trời hiện diện trong con người”. Ménadre cho rằng tiếng nói của lương tâm chính là tiếng nói của Trời trong mỗi con người chúng ta; còn Quintilien thì coi lương tâm có giá trị bằng cả ngàn nhân chứng và một hành động xấu nào đó của ta được tòa án tha bổng thì “không một tội nhân nào lại được tòa án lương tâm tha thứ” [2]. Anselm Gunthor [3](tác giả của giáo trình Thần Học Luân Lý Chiamata e Risposta , được tái bản lần thứ VII vào năm 1994) cho rằng Thiên Chúa, Đấng tự tỏ lộ cho con người và kêu gọi con người sống hiệp thông với Người và tuân giữ các lề luật của Người, cũng ban cho con người khả năng nhận biết và đáp trả tiếng gọi của Người, với lời của lề luật. Cái khả năng nhận biết và đáp trả này chúng ta gọi nó là lương tâm.

Thánh Kinh nói gì về lương tâm ?

Ngoài đoạn văn trong văn chương khôn ngoan muộn thời (Kn 17,11), Cựu Ước không biết đến một từ ngữ đặc biệt để chỉ lương tâm, nhưng Cựu Ước lại biết rất rõ sự kiện của lương tâm, mà thường được trình bày như là cái tâm xấu, một cái tâm sau khi đã phạm tội (x. Kn. 3,8; 2Sm .12,13). Đối với Thánh Kinh Cựu Ước, thì lương tâm luôn là lương tâm trước mặt Thiên Chúa. Con người luôn luôn đứng trước Thiên Chúa để trả lẽ về những hành vi của mình: đúng đắn, tốt đẹp hoặc bậy bạ, xấu xa. Ngoài ra, trong hành vi của lương tâm, thì không phải chỉ có cái tâm, nhưng là toàn bộ con người đang hành động [4]. Trong Tân Ước , các sách Phúc Am cũng không có một từ ngữ nào đặc biệt để chỉ lương tâm. Lương tâm được gắn chặt vào lãnh vực thầm kín của con người và được ám chỉ bằng từ tinh thần (pnéuma) hoặc tấm lòng (kardia). Tuy nhiên, cũng như Cựu Ước, các sách Phúc Âm đặc biệt nói đến sự kiện của lương tâm xấu sau hành động xấu (x. Lc. 15,21; Lc. 22,62). Thái độ, lối sống và cách ứng xử của người biệt phái làm thành những ví dụ cụ thể và rõ ràng về một thứ lương tâm đã bị biến chất, thoái hóa trở thành cái tâm chai đá và hư hỏng. Thánh Phaolô đã dùng từ Hy Lạp Syneidaesis để chỉ lương tâm. Tuy nhiên, từ này cũng không có ý coi lương tâm chỉ như là một phần của cơ thể người, nhưng ám chỉ cả con người và cả con người đó luôn hiện diện cách trọn vẹn trước mặt Chúa và phải trả lẽ với Chúa về những hành vi nhân linh của mình. Với thánh Phaolô, từ syneidaesis thường chỉ về lương tâm theo nghĩa luân lý. Chẳng hạn trong thư Roma 2,15 :” Lương tâm họ làm chứng cho dân ngoại rằng lề luật đã được viết trong lòng họ”. Ý nghĩa luân lý của từ syneidaesis còn được sử dụng trong các thư mục vụ của Phaolô như tâm tốt (1Tm. 1,5); tâm trong sạch (2Tim. 1,3); tâm nhiễm uế (Tt 1,15). Ngoài ra, lương tâm theo nghĩa tôn giáo-luân lý xuất hiện cách đặc biệt trong Rm 14: (được phép hay không được phép ăn thịt cúng); 1Cr. 8: (phẩm chất luân lý của việc ăn thịt trước khi cúng cho các thần minh dân ngoại); 1Cr. 10,14tt: (tham dự vào các bữa tiệc cúng tế của dân ngoại và việc ăn thịt đã cúng tế). Công Đồng Vatican II dạy gì về lương tâm? Công Đồng Vatican II coi lương tâm như là khả năng nhờ đó con người nắm bắt được tiếng gọi của Thiên Chúa cùng với các huấn lệnh của Người tức là các lề luật: “Nhờ lương tâm, con người nhận thức và hiểu biết những mệnh lệnh của Thiên Chúa” (DH 3). Tuy nhiên, cũng như Thánh Kinh, Công Đồng không coi lương tâm chỉ như một phần của con người, nhưng là cả con người đang hành động qua mỗi hành vi nhân linh của mình. Đặc biệt số 16 của Hiến Chế Vui mừng và Hy vọng, Công Đồng nói đến thật rõ ràng và đầy đủ về lương tâm: “Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo, và tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người: hãy làm điều này, hãy tránh điều kia. Quả thật con người có lề luật được Chúa khắc ghi trong tâm hồn. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy nữa. Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ. Nhờ lương tâm, lề luật được thực hiện trong sự yêu mến Thiên Chúa và anh em, và được biểu lộ cách kỳ diệu. Trung thành với lương tâm, các Kitô hữu liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân lý biết bao vấn đề luân lý được đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như trong giao tiếp xã hội. Bởi vậy, lương tâm ngay thẳng càng thắng thế, những cá nhân và cộng đoàn càng tránh được độc đoán mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Tuy nhiên, lương tâm nhiều khi lầm lạc vì vô tri bất khả thắng, nhưng cũng không vì thế mà mất hết phẩm giá. Nhưng không thể nói được như vậy khi con người ít lo lắng tìm kiếm điều chân và điều thiện cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng” (GS 16). Lương tâm mà Công Đồng nói đến chính là cái Tính bản thiện, (Nhân chi sơ, tính bản thiện), là cái tâm thiện, cái tâm tốt lành, cái chính tâm hay thiện tâm, là cái tâm mà chính Thiên Chúa đã phú ban cho mọi người và cho mỗi người khi dựng nên con người theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa [5]. Người có lương tâm, với cái tâm ngay chính là người biết quan tâm sao cho những ý nghĩ, những lời nói, những quyết định hành động của mình được khách quan, đúng đắn và có trách nhiệm. Người có lương tâm, với cái tâm chân thật sẽ cho là tốt điều mà khách quan là tốt. Sẽ cho là xấu điều mà khách quan là xấu. Ngưới có lương tâm, với cái tâm tế nhị, sẽ có được sự nhạy bén, tinh tế nhờ đó nhanh chóng nhận biết các giá trị khách quan và nhiệt tình muốn thực hiện các giá trị khách quan ấy. Tuy nhiên, do tác động của tội lỗi, lương tâm con người “nhiều khi lầm lạc vì vô tri bất khả thắng” [6] (như trường hợp của Saulô, cho rằng Kitô giáo là một thứ tà đạo, một thứ lạc thuyết nguy hại cho đức tin tinh tuyền của Do Thái giáo nên cần phải bị tiêu diệt), hoặc đã dần dần bị biến chất, thoái hóa và suy đồi. Cái tâm thiện, cái chính tâm, nơi một số người đã hóa thành cái ác tâm, dã tâm, tâm bất chính hay tà tâm, đang gây nên biết bao tai hại cho chính mình và cho tha nhân. Sự biến chất, thoái hóa của lương tâm thường đuợc nhận dạng qua những biểu lộ như :

1/ Tâm bất chính : Người có tâm bất chính thường không quan tâm hoặc không quan tâm cách đầy đủ trong việc tìm hiểu và hành động đúng theo những đòi hỏi của những chân lý khách quan. Thí dụ: làm giàu bất chính, gian lận hoặc lừa đảo, miễn sao có được nhiều tiền.

2/ Tâm sai lầm : Người có tâm sai lầm cho là tốt điều mà khách quan là xấu và cho là xấu điều khách quan là tốt. Tâm sai lầm còn có thể là sai lầm bất khả thắng (thí dụ trường hợp của Phaolô khi chưa gặp Chúa trên đường Damas) và sai lầm khả thắng.

3/ Tâm phóng thứ hay phóng túng : Người có tâm loại này không đếm xỉa gì đến dư luận, chẳng kể gì đến ô uế, sĩ nhục, miễn là người ấy có thể thỏa mãn được dục vọng của mình. Để thỏa mãn dục vọng của mình, người đó có thể và dám làm mọi việc, không còn biết e thẹn, xấu hổ là gì. Người có tâm phóng túng chạy theo một lối sống buông thả, để cho những ham muốn dục tình chế ngự mình. Chính những ham muốn dục tình thái quá và cuộc sống buông thả làm cho người đó mất cả nhân cách.

4/ Tâm chật hẹp : Người có tâm loại này luôn bị gò bó và luôn bị giới hạn trong phạm vi mệnh lệnh như phải làm điều này, được phép làm điều kia, cấm không được làm điều này hoặc điều kia... tâm chật hẹp sẽ khiến cho người đó dễ có thái độ bất mãn, hoặc bất mãn chính mình hoặc bất mãn những người khác vì không chịu tuân theo mệnh lệnh hay luật lệ quy định. Tâm chật hẹp chỉ nhằm tránh điều cấm đoán hơn là vượt qua điều xấu bằng điều tốt.

5/ Tâm giả hình : được pha trộn giữa tâm phóng thứ và tâm chật hẹp. Người có tâm giả hình thì ngôn-hành thường bất nhất. Nói vậy chứ không phải vậy. Bằng mặt nhưng không bằng lòng.

6/ Tâm chai đá : Là một cái tâm đã trở nên chai cứng nên mất cảm giác, không còn khả năng cảm xúc. Tuy nhiên, sự chai cứng của tâm chai đá không phải là việc một sớm một chiều nhưng trãi dài qua thời gian. Chẳng hạn, không một ai trong một sớm một chiều trở nên đại tội nhân. Lúc đầu khi phạm tội, người ấy cảm thấy sợ hãi, lo âu, ghê tởm tội lỗi, lương tâm cắn rứt, khổ sở, buồn sầu, hối tiếc vì mình đã phạm tội. Nhưng nếu cứ tiếp tục phạm tội, đến một lúc nào đó, anh ta sẽ mất tất cả mọi cảm xúc vừa nêu và rồi có thể làm những điều xấu hổ nhất mà không một chút xúc động: tâm của anh ta đã ra chai lỳ.

7/ Tâm hồ nghi : Gồm có hồ nghi pháp lý (không biết một việc nào đó có được phép làm hay không) và hồ nghi sự kiện (không biết một cuộc giải phẫu nào đó có làm thành một triệt sản hay không). Qua phần trình bày về lương tâm trên đây, công đồng muốn khẳng định một số chân lý quan trọng sau đây:

1/. Lương tâm phải chiếm một địa vị nổi bật, nhất là trong thời đại chúng ta, thời mà từng cá nhân và lương tâm của họ càng ngày càng được đề cao, nhưng đàng khác, quyết định của lương tâm cá nhân bị ngăn trở, bị đe dọa hoặc bị hướng dẫn theo chiều hướng lệch lạc do các phương tiện truyền thông.

2/. Lương tâm chính là sự hiện diện của con người trước mặt Thiên Chúa. Lương tâm xét cho cùng là hiện tượng tôn giáo chứ không chỉ là luân lý vì có mối tương quan chặt chẽ giữa lương tâm với Thiên Chúa. Do đó, theo Công Đồng, nếu chỉ nhìn lương tâm theo cái nhìn thuần túy tâm lý và xã hội thì quả là còn thiếu xót.

3/. Lương tâm con người không độc lập (autonomous) nhưng tùy thuộc vào Thiên Chúa, vào các lề luật của Thiên Chúa và vào chân lý khách quan. Do đó, Công Đồng chống lại mọi thứ duy chủ quan sai lầm;

4/. Lương tâm cá nhân có thể và phải liên kết với những người khác. Khi người ta nghiêm chỉnh hướng lương tâm về trật tự khách quan của hữu thể, của bổn phận, thì các lương tâm của các cá nhân không những hướng về chân lý mà thôi, mà còn quy hướng về cộng đoàn nữa: Trung thành với lương tâm, các Kitô hữu liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân lý biết bao vấn đề luân lý...” (GS 16). Giáo dục lương tâm, huấn luyện lương tâm chính là giúp cho con người nhận thức được sự biến chất, thoái hóa cái tâm của mình và cố gắng cải thiện, cố gắng điều chỉnh để đưa cái tâm bị biến chất, thoái hóa về với cái chính tâm, cái tâm thiện tức là lương tâm . Nhờ sự hướng dẫn của lương tâm, mỗi người, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, luôn có thể lắng nghe, nhận ra được Ý Chúa và quyết tâm đem ra thực hành.

nhom tac gia - bao hiepthong.vn

 

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)