o dongcong.net
     
 
Suy niệm 10 phút Mỗi Ngày
 
 

MÌNH VÀ MÁU ĐỨC GIÊSU LÀ MỌI GIẢI ĐÁP

-Suy niệm góp nhặt 18-2-2009


 Tổng hợp tư tưởng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Giáo Hoàng Bênêđíc XVI (1)

                                                                                                                 
Đỗ Trân Duy 

Trong ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, đức Gioan Phaolô II nhận định rằng khuynh hướng triết học hiện đại vẫn là cuộc tiếp nối chủ xướng của Descartes: con người là tâm điểm của vũ trụ. Đúng với nhận xét của Giáo Hoàng, chủ nghĩa duy lý càng ngày càng lan rộng trong mọi lãnh vực. Con người trở nên cực kỳ tự mãn với kiến thức của mình. Nền duy lý hiện đại cho rằng chính tư tưởng con người đặt tên cho thực tại để nó hiện hữu. Vì vậy, chỉ những gì phù hợp với tư tưởng con người chúng mới có ý nghĩa. Đối với họ, Thiên Chúa không có thật. Ý niệm Thiên Chúa chỉ thuần túy là một tư tưởng, hay một giả thuyết không thể kiểm chứng. Trong không khí cao ngạo ấy, một số học giả theo phương pháp phê bình sử học có vẻ đã làm chao đao khoa thần học Cứu Độ của Kitô giáo. Họ đưa ra những vấn nạn có sức lay chuyển đức tin, nơi cả những người ngoan đạo. Theo sát thời đại, Giáo Hội quan tâm đến những thách thức của tri thức hiện đại. Theo đức Bênêđíc XVI, truyền bá Phúc Âm cũng nhằm đào sâu sự hiểu biết chân lý được khám phá bởi lý trí. Giáo Hội muốn xác quyết không hề có sự cạnh tranh giữa lý trí và đức tin.  

Lược qua những tư tưởng phản Kitô của thời đại, người ta thấy vào thập niên 60, học giả Bultmann cho rằng người ta thật sự không rõ Đức Giêsu đã chết thế nào. Người ta đành mở một ngõ cửa cho giả thuyết về sự thất bại của cái chết ấy. Thẳng thừng hơn, vào thập niên 70, Mainberger đã làm dân Âu Châu giật mình với câu nói: “Đức Kitô đã chết vô ích.” (Christ died for nothing). Qua thập niên 80, Vittorio Messori, dựa vào thống kê về tình trạng tín đồ Công Giáo đang trên đường giảm thiểu, đặt nghi vấn rằng Công Giáo có nguy cơ bị triệt tiêu. Kế đó một số người công giáo hâm nóng vấn đề với tranh luận về khóm từ “cho mọi người được tha tội.” Họ cho biết nguyên văn tiếng Hy Lạp và La Tinh trong lễ Misa là “cho nhiều người,” dịch thành “cho mọi người” là cố tình chuyển ý sai. Đó là một số nhận định tiêu biểu của thời đại mới. Chúng có chung một mối ngờ vực về giá trị cuộc tử nạn của Đức Giêsu. Theo đó, tất cả những gì Đức Giêsu đã làm, chẳng giúp ích gì cho tình trạng sa đọa của thế giới con người.  

Như chúng ta đã biết, phương pháp phê bình sử học không chấp nhận những hiện tượng tâm linh siêu việt, vì sử học không thể kiểm chứng chúng được. Bultmann, và nhóm của ông, chỉ coi Đức Giêsu là một đạo sư trình độ bình thường và có 12 môn đồ. Siêu tính Thánh và những phép lạ của Đức Giêsu đều bị họ loại bỏ. Chủ trương này lại khiến chính Bultmann bị lúng túng, vì đã không tìm ra lý do tại sao Đức Giêsu bị giết. Bởi vì không ai đi đóng đinh một thầy tu bình thường. Chẳng những thế, trong hậu trường cuộc tử nạn của Đức Giêsu lại qui tụ rất nhiều giới cấp xã hội đối nghịch: Do Thái và La Mã, người tin và kẻ chống. Nhóm Bultmann bắt buộc phải đề xuất một cơ sở sử liệu nào đó để có thể giải thích và chứng minh. Họ biện luận rằng những lời hô hào cải tạo xã hội của Đức Giêsu là nguyên nhân cái chết của Người. Lời kêu gọi không được dân hưởng ứng, mà người đề xướng thì bị giết. Bultmann kết luận, công nghiệp của Đức Giêsu là một việc làm thiếu hiệu quả, nếu không muốn nói là thất bại.  

Theo đức Bênêđíc XVI, khổ nạn Thập Tự Giá của Đức Giêsu vượt khỏi sự kiện bình thường, nên cũng không thể giải thích theo những tiêu chuẩn thông thường. Lời giải cho vấn nạn trên, và những chủ đề cùng loại, nằm trong biến cố bữa tiệc ly. Khi Đức Giêsu ban bánh và rượu, Người nói: “Đây là mình Ta,” và “Đây là máu Ta.” Khi tuyên bố như vậy, chính Đức Giêsu đã cho biết Người sẽ nhận cái chết và lý do tại sao phải xảy ra như vậy. “Đây là mình tôi, đây là máu tôi” vốn là lời nguyện của dân Do Thái khi dâng lễ sát tế thú vật trong đền thờ. Khi Đức Giêsu nói câu này Người đã không dùng lễ vật gì khác ngoài chính mình làm của lễ hy tế. Tuy căn phòng của bữa tiệc ly không phải là đền thờ, nhưng Tân Ước không cần đền thờ, vì Thiên Chúa và Chiên Con chính là đền thờ. Ngay lúc ấy Người đã khiến hằng vạn những vụ sát tế thú vật thời Cựu Ước, cùng tất cả những lễ sát tế trong lịch sử nhân loại đều trở thành vô nghĩa. Chúng không thể nâng con người lên gần Thiên Chúa. Chỉ có qua Đức Giêsu, nhân loại mới nối kết được với Thiên Chúa tối cao. Lời giao ước hứa ban ơn cứu  rỗi trong Cựu Ước nay đã được hoàn thành bằng cái chết của Đức Giêsu. Hai câu nói thâm sâu đến mức không thể đo lường của Đức Giêsu “Đây là mình Ta, đây là máu Ta” là nền tảng của mầu nhiệm Thánh Thể, biểu hiệu cốt tủy của Công Giáo. Từ câu nói ấy chúng ta rút ra mọi giải đáp về sự sống, bởi Thánh Thể là thực tại hiện diện của Thiên Chúa hằng sống. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu làm tiêu tan sự hư nát, nỗi buồn tẻ, niềm vô vọng, và tội lỗi của thế giới.  

Như chúng ta đã biết, một nghi thức không tự dưng được lập ra mà có thể tự đứng độc lập. Nó phải nối kết với một thực tại là cái nội dung của nó. Cũng như tấm ngân phiếu phải có tiền bảo chứng mới có giá trị. Thực tại, tức nội dung, của nghi thức “cho bánh và rượu” là “lòng hiến tặng một tình yêu.” Thịt và máu không phải từ một xác chết nhưng là một tặng phẩm tình yêu của người còn sống. Đức Giêsu chỉ có thể nói “cho” khi Người thật sự cầm lấy mà cho. Vào lúc ấy Đức Giêsu chỉ có thể trao cho các Tông Đồ, những vị đại diện cho nhân loại. Nhưng sau Phục Sinh, tình yêu của Người đi vào vĩnh hằng, vì tình yêu này đã vượt thắng sự chết. Khi ấy ơn cứu độ có quyền lực “ban cho” mọi người. Sau Phục sinh, qua nhiệm tích Thánh Thể, Đức Giêsu hiến mình và máu để trao ban cho mọi người. Lời “cho” bánh và rượu là lời hiến tặng chính Người, và cũng là lời mời gọi chúng ta đi vào mầu nhiệm tình yêu của Người.  

Bultmann, và những người duy lý, muốn biết Đức Giêsu đã chết thế nào. Xin trả lời Đức Giêsu đã chuyển cuộc tử nạn thành một nghĩa cử tâm linh cho một xác quyết: tự-xé-nát-thân để tự-phân-phát tình yêu; đồng thời cũng là một động tác tôn vinh Thiên Chúa. Lời nói trong bữa tiệc ly nếu không có cái chết-cho-tình-yêu đi kèm, chẳng khác gì tấm ngân phiếu không tiền bảo chứng. Nhưng nếu cái chết không có di-ngôn-trao-ban đi kèm, cuộc tử nạn chỉ là bản án tử hình vô bổ. Cuộc hy tế là điểm cao nhất của tình yêu. Đó là ý nghĩa Đức Giêsu muốn chúng ta hiểu về cái chết của Người. Như vậy trong nhiệm tích Thánh Thể, cả ba thành tố: tình yêu, hiệp thông và phụng thờ Thiên Chúa quyện thành một. Suy ra khi chúng ta nhận lãnh Thánh Thể mà không có lòng mến Chúa yêu người, tự bản chất đã có sự tan vỡ, chúng ta sẽ không có sự hiệp thông.  

Chúng ta còn thấy điều này rất phù hợp với kỳ vọng của Cựu Ước. Đức Giêsu thêm vào một câu nói, lấy ý từ sách Isaia chương 53: đổ ra cho các ngươi và cho nhiều người. Những kiểu nói tương tự như thế vốn là lời tế tụng của dân Do Thái, trong thời kỳ lưu đày ở Babylon. Vào lúc đó đền thánh Giêrusalem không còn. Mọi phụng vụ trong đền thờ không còn. Để duy trì sự kết hợp liên tục với Thiên Chúa, dân Do Thái chấp nhận đau khổ như một phụng vụ mới. Nỗi đau khổ của họ được coi như là cuộc hiến tế để xám hối. Tuy dân Do Thái lưu đày lãnh chức nhiệm ấy, nhưng họ lại chưa bao giờ thực hiện được hoàn mỹ. Họ luôn luôn tỏ lộ sự vô ơn, lòng ích kỷ và tâm bất xứng. Vì vậy cùng lúc, tuy trong nỗi niềm hiến dâng nỗi đau khổ, họ vẫn mong đợi có một đấng sẽ đến thực hiện điều ấy một cách trọn vẹn. Đức Giêsu tự nói câu này, như vậy Người không nói cho mình, nhưng thay mặt cho toàn thể nhân loại. Nơi Người, nỗi mong đợi của Cựu Ước đã thành tựu.  

Mình và Máu là căn gốc của phép Thánh Thể. Nhưng chân lý Tân Ước cho biết chỉ có lời nói sẽ không đủ. Chỉ có cái chết cũng sẽ không đủ. Có cả hai vẫn không đủ. Phải có Phục Sinh mới hoàn toàn đầy đủ cho nhiệm tích Thánh Thể (1Cor 15:14). Nhiều người chỉ có cái nhìn cục bộ hoặc nhắm vào lời nói, hoặc chú ý đến cái chết, hay nệ vào cách tường thuật dị biệt của kinh điển, nên không nắm vững vấn đề. Chẳng hạn một số người đã ngưng đọng tầm nhìn ở khái niệm “cho nhiều người.” Trong tiếng Hebrew, chữ “nhiều người” cũng đồng nghĩa với chữ “mọi người.” Như vậy không có vấn đề dịch sai nhưng tùy ở chỗ đứng của hướng nhìn. Cả hai công thức “nhiều người” và “mọi người” đều được dùng trong Kinh Thánh và truyền thống của Giáo hội. Sách lễ Latin và Tân Ước Hi Lạp đã dùng chữ “nhiều người.” Sách Tân Ước của những ngôn ngữ khác dùng chữ “mọi người.” Thực ra cả hai khái niệm đều không diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của Phúc Âm. Trong mọi trường hợp, ta phải đặt câu nói này trong toàn mạch Thánh Kinh mới hiểu được.  

Hiểu theo cách trọn vẹn chân lý Tân Ước, cũng như cốt tủy của truyền thống Giáo Hội, là mặc khải về ơn cứu độ cho toàn thể loài người. Loài người là một danh xưng bao gồm những người thời trước, người trong thời hiện tại, và người trong thời tương lai. Đức Giêsu không chết cho một nhóm người hay cho một thời điểm lịch sử nhất định. Thiên Chúa không đặt ra ở đâu đó một đường ranh giới ngăn cách con cái của Người. Thánh Phaolô đã nói rõ, “Đức Giêsu đã hiến mình làm của lễ hy sinh cho toàn thể” (1 Tim 2:6) và “một người chết cho tất cả.” (2 Cor 5:14). Đức Giêsu biểu lộ tình yêu trong cách thế tuyệt hảo nhất: Người trao ban chính Người, để nâng nhân loại lên và để cứu rỗi toàn thể nhân loại. Truyền thống này là chính thống của đức tin. Đã có lần vào thế kỷ thứ 7, Jansen (1585-1638) tung ra dị thuyết cho rằng Đức Giêsu không chết cho tất cả mọi người. Giáo Hội đã mạnh mẽ phủ nhận chủ xướng sai lạc này. Lối suy nghĩ ấy chỉ có ở nơi những con người ích kỷ, kẻ không thể chấp nhận tiền công trả cho người đến sau cũng bằng với tiền công của người đến trước. Đó là thái độ của người anh, kẻ không chịu nổi tình yêu của cha đối với đứa em thoát chết. Những người này chỉ cảm thấy hạnh phúc khi người khác thua kém mình. Như vậy họ chỉ đến với họ không phải đến với Thiên Chúa. Đức tin đức mến đối với họ là một gánh nặng. Họ thích sống đầy đủ giữa những kẻ thiếu thốn. Một cuộc cứu độ ganh tị không phải là ơn cứu độ của Kitô giáo. 

Tuy nhiên, mặc dù ơn cứu độ ban cho tất cả, nhưng không vì thế mà tất cả mọi người đều được cứu rỗi. Thiên Chúa không cưỡng ép bất cứ ai phải chấp nhận ơn cứu độ của Người. Thiên Chúa thật sự là một người Cha yêu thương và tôn trong phẩm giá tự do của con cái. Cho dù con người có dùng tự do để phủ nhận Thiên Chúa, ơn tự do không vì thế mà bị hủy bỏ. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa muốn cứu mọi người, nhưng không phải mọi người đều được cứu một cách máy móc. Khi nói “cho mọi người” Hội Thánh cố ý nhấn mạnh vào tính phổ quát của ơn cứu độ. Nhưng chúng ta phải hiểu ơn này chỉ thành tựu khi có sự đáp ứng của con người. Cho nên khi nói: “nhiều người được cứu rỗi,” đó không phải là sự thất bại nhưng là sự lựa chọn của ý chí tự do.  

Chúng ta hãy suy luận tiếp câu nói thứ ba của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly: “Đây là máu giao ước.” Lại một lần nữa Đức Giêsu xác nhận Người chấp nhận cái chết. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu là sự cô đọng toàn thể Cựu Ước bao gồm thần học Hiến tế, thần học Lưu Đày, và thần học Tôi Tá Đau Khổ. Giờ đây câu nói thứ ba này còn nêu ra một chủ đề quan trọng khác: Đức Giêsu lấy máu để thành lập huyết thống anh em với nhân loại (2). Người lấy máu để đóng ấn Giao Ước Mới này. Thánh Âugustine, đã có lần giảng trong ngày lễ Tiền Phục Sinh: “Các con cần hiểu rằng các con đã nhận được gì. Đức Giêsu nói (qua thánh Tông Đồ), ‘Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một Thân Thể,…một Bánh’ Đó là tất cả những gì các con cần biết.” Thật thế, Thánh Thể đã kết hợp chúng ta thành một thân thể. Đức Giêsu là Đầu, chúng ta là chi thể. Đó là Giao Ước Mới của Đức Giêsu. Vì đức Giêsu là Thiên-Chúa-người, cho nên khi lập Giao Ước Mới này, Người đại diện nhân loại tế lễ Chúa Cha, cùng lúc Người cho chúng ta hợp nhất với bản thể Thiên Chúa của Người, để có thể mang chúng ta đến với Cha. Người là cửa ngõ để Thiên Chúa và nhân loại gặp nhau. Người đã mở một cánh cửa mà chúng ta không thể nào tự mở cho mình. Đó là ân phước chúng ta không bao giờ dám nghĩ tới. Cánh cửa này mãi mãi vẫn khuất trong bóng tối âm u cho biết bao nhiêu tôn giáo. Họ tiếp tục kêu gào, truy tầm khắc khoải trong thời gian, nhưng không chắc có được câu trả lời. Chúa Cha chỉ nghe lời Con Yêu Dấu của Cha, Đấng cũng là Thiên Chúa. 

Trở lại với câu phê bình: phải chăng Đức Giêsu đã thất bại? Theo nhãn quan duy lý của trần thế, ngay từ lúc đầu Đức Giêsu đã thất bại. Lời giảng đạo của Người ít được ai theo. Không những thế vì những lời giảng ấy mà còn bị giết. Nhưng Kitô giáo không quan niệm thành công dựa trên những con số thống kê tín đồ. Sự thành công nằm ở Thập Tự Giá, ở nơi Giáo Hội hoàn vũ, và ở nhiệm tích Thánh Thể. Thập Tự Giá là dấu hiệu Thiên Chúa toàn thắng sự chết và tội lỗi. Giáo Hội là nguồn ban phát nhiệm tích Thiên Chúa. Thánh Thể là bằng chứng Thiên Chúa hằng hiện diện. Thiên Chúa đến chia sẻ nỗi đau khổ của con người. Con người không còn sống lẻ loi, không bị bỏ rơi. Mình Máu là Sự Sống và là nguồn lực thanh lọc của con người. Nhờ đó con người không còn là một sinh vật ô uế, nhưng được cứu vớt. Những điều siêu việt này vượt trên ý niệm thành công theo số lượng, khi giá trị không thể đo bằng số lượng.  

Trả lời cho ký giả Vittorio Messori về hiện tượng tín đồ giảm thiểu, đức Gioan Phaolô II đã nói những lời rất giản dị nhưng cũng rất bất hủ, “Tôi nghĩ rằng Đức Giêsu đã trả lời rồi, Người nói: Khi Con Người đến, liệu có còn niềm tin trên trái đất nữa không?” (Luc 18:8). Nhưng trước khi nói câu đó, Đức Giêsu đã an ủi những ai theo Người: “Đừng sợ hãi! Hỡi đàn chiên bé nhỏ! Vì Cha các ngươi đã ban Nước Trời cho các ngươi.” (Luc 12:32). (Đức Gioan Phaolô II đã nổi tiếng với khẩu hiệu “Đừng sợ hãi” trong suốt triều đại của ngài.) Hiển nhiên Đức Giêsu không tiên liệu chân lý của Người là một lời hứa dễ dàng cho mọi người. Chúng ta không thể hạ thấp Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, trở thành một ông tiên, người dùng đũa thần biến hóa mọi thứ để phục vụ theo ý muốn của chúng ta. Trong khi con người muốn sống hưởng thụ, thì Phúc Âm của Đức Giêsu đưa ra những thách thức nghịch lý: “Ai muốn được cứu phải vác thập giá,” “Ai muốn sống cái tôi phải chết”… Đó là nền tảng Tin Mừng của Đức Giêsu, nhưng đó cũng là nguyên nhân chống đối của những người duy lý thời hiện đại.  
 
__________
(1) Tư tưởng của Giáo Hoàng John Paul II trong cuốn sách “A Minority By The Year 2000”, Crossing The Thresthold Of Hope. 1994. Alfred A. Knopf, Inc., New York. pp. 101-104.

Tư tưởng của  Joseph Cardinal Ratzinger (Giáo Hoàng Bênêđic XVI) trong 2 tác phẩm: “God’s Yes and His Love Are Maintained Even in Death”, God Is Near Us. 2003. Ignatiua Press, San Francisco. pp.27-41. và “Relationship of Liturgy to Time and Space”,  The Spirit Of The Liturgy. 2000. Ignatiua Press, San Francisco. pp.53-61.

(2) Đức Giêsu liên kết biến cố này với biến cố Giao Ước trên núi Xinai giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Trong nghi lễ này dân chúng giết bò làm lễ vật hy tế. Máu bò được rảy lên bàn thờ và trên mọi người để chỉ mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và dân Chúa (XH 24:1-8). Như vậy Tân Ước đã kiện toàn niềm mong đợi của Cựu Ước.  

Nhóm tác giả - Việtnam

 

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)