Suy niệm 10 phút Mỗi Ngày
 
 

Ngã Lòng và đức tin

suy niệm mỗi ngày

“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ 4 năm 1977 nhấn mạnh đến tính cách Quy Ki-tô (Christocentrisme) trong việc dạy Giáo Lý. Lời của Thánh Phaolô gửi tín hữu Galata nói lên tất cả Đức Tin của Ngài vào Chúa Kitô, vì nếu Chúa Kitô không sống trong Ngài, thì Ngài đã không thể vượt qua mọi gian truân thử thách khốn cùng Ngài đã chịu, từ khi quy phục Chúa Kitô trên đường Damas. Thánh nhân lý giải đức tin của Ngài một cách đơn giản, nhưng đầy xác tín: “Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là trông mong nữa, vì ai lại trông mong những điều mình đã thấy rồi? Nhưng nếu chúng ta trông mong điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ”. (Rm 8,22 – 25). Cái nghịch lý giữa Ngã lòng chán nản và Đức Tin vẫn luôn tồn tại như thế trong mỗi Kitô hữu : chính khi chúng ta tưởng là chán nản, nhưng cố gắng nhìn về Chúa, ấy là lúc đức tin nẩy sinh hoa trái! Trong những tháng ngày tuyệt vọng bị truy đuổi bởi phát xít Đức, một người Do Thái đã viết lên bức tường của căn nhà nơi anh ta lẩn trốn những dòng này:
“Tôi tin vào mặt trời dù mặt trời không tỏa sáng
Tôi tin vào tình yêu dù tình yêu tôi không cảm thấy được
Tôi tin vào Chúa dù Chúa vẫn lặng thinh”.

***

Một con số hết sức ấn tượng những người dân trên khắp đất nước [Hoa Kỳ .BTGH] đã tích cực cầu nguyện cho những người bảo vệ sự sống ra ứng cử vào ngày 04.11.2008. Không chỉ có rất đông những người cầu nguyện riêng, mà còn không đếm xuể những nhóm tụ họp nhau được thông báo công khai để cầu nguyện, làm tuần cửu nhật, lần chuỗi, chầu Thánh Thể. Những lời cầu nguyện nầy được những người có đức tin sâu xa dâng lên, những kẻ biết rõ rằng chúng tôi cần đến một phép lạ và tin cậy vào Chúa ban cho điều đó. Nhưng rõ ràng là Chúa đã không đáp lời. Như vậy tại sao chúng ta vẫn còn tin nơi Người?

TIN DỮ TRƯỚC HẾT
Với nguy cơ trở thành tiêu cực thụ động trong chốc lát, chúng ta hãy xem xét trước tiên đến các tin xấu. Dù Thiên Chúa đã không can thiệp –ít nhất một cách tỏ tường - để ngăn chận sự lún sâu của văn hoá sự chết trong mùa bầu cử, thì thực tế hiện còn tồi tệ hơn thế nhiều. Nền văn minh phương Tây đã ở trên một đà tuột dốc từ khoảng năm trăm năm qua. Tôi không có ý đưa ra lý lẽ để chứng minh rằng thời Trung Cổ của Kitô giáo là một thời hoàn hảo hoặc cho rằng đã không có những vấn đề nghiêm trọng của thời kỳ ấy. Nhưng xét từ góc độ ảnh hưởng chung của những điều Kitô giáo tin và sức mạnh của Đức Tin Công Giáo gọt dũa uốn nắn văn hoá, ta thấy đã có một đường xoắn ốc đi xuống chí ít là từ cuộc Nổi Dậy Tin Lành vào thế kỷ 16. Sự phát triển  tăng dần của thuyết tương đối và chủ nghĩa tục hoá kể từ thời đó, đã dẫn đến sự hỗn độn hoàn toàn mà chúng ta đang sống ngày nay, mà không thấy một sự đảo ngược lâu bền nào.

Bắt đầu tình trạng các Kitô hữu trong cuộc bị đặt ra bên lề. Trong một thời gian dài cho đến nay, trẻ chưa sinh được luật pháp bảo vệ và những ai mạnh mẽ bênh vực trẻ chưa sinh  hoặc bản chất hôn nhân hoặc cả chính luật tự nhiên, thì ngày càng bị coi không ra gì và bị dành cho một vị trí hợp pháp ngày càng thấp hơn. Việc thực hành tự do các quyền của họ ngày càng bị xem như là một sự tấn công xã hội. Nếu họ đưa ra lý lẽ chứng minh đồng tính dục là bừa bãi hỗn loạn, thì họ bị buộc tội là phát biểu vì hận thù. Nều họ cố khuyên can các phụ nữ đừng nạo phá con cái mình, thì người ta buộc cho họ có âm mưu tội ác. NHững luật lệ mới đã được thảo ra (chẳng hạn hư FOCA) để bảo đàm sự loại bỏ nầy được tiếp tục và những quan toà mới sẽ sớm đựôc bổ nhiệm ở mọi cấp tòa án nhằm bảo đảm rằng những ai tán thành hoặc duy trì một cái gì đó giống như một nhãn quan luân lý Kitô giáo thì có thể bị  lấy đi quyền phát biểu, hội họp, công ăn việc làm và tiền bạc.

    Trong một cụôc trao đổi qua điện thoại hôm qua, Phil Lawler nói rằng ngày nay các Kitô-hữu tốt lành có cảm tưởng “bọn chúng đi theo sau chúng tôi”. Theo như tôi thấy, những người cảm thấy cách nầy hoàn tòan có lý . Bọn chúng - những người ưu tú về văn hoá – đang theo dõi chúng ta và xem ra việc nầy không có vẻ sẽ sớm thay đổi. Đó là tin dữ và sự thật gây rùng mình là có vẻ như Thiên Chúa không có ý định làm bất cứ điều gì về chuyện nầy, bất chấp đức tin và lời cầu nguyện của chúng ta. Vì vậy (xin vui lòng trở thành tiêu cực với tôi thêm một ít thời gian nữa) tại sao chúng ta lại vẫn đặt niềm cậy tin của chúng ta nơi Thiên Chúa?
 

TIN CHĂC CHẮN
Vấn đề nầy chập chờn hiện ra trong tâm trí tôi thường xuyên hơn kể từ Ngày Bầu Cử và tôi không nghi ngờ rằng những cử tri bị ngã lòng khác, cũng kinh nghiệm điều tương tự, Câu trả lời một cách nào đó rất khó khăn và kinh nghiệm của chúng ta về câu trả lời đó thường thường hết sức mơ hồ tế nhị. Ngay lúc nầy tôi lo lắng về những điều khó khăn gay go nầy và tôi có thể nhìn thấy mình đang đi tìm một câu trả lời không dễ gì diễn tả được. Vì lý do đó, khi tôi viết đến chỗ nầy, tôi đã ngừng lần hạt Mân Côi, để cầu xin Thiên Chúa giúp cho tôi nói những gì Người muốn tôi nói.

Giờ đây xin hãy ngùưng lại. Hãy nghĩ về những gì tôi đã viết trong hai câu gần đây nhất. Tôi bận tâm lo lắng về vấn nạn làm sao chúng ta biết được Thiên Chúa có thực và Người chăm sóc dưỡng nuôi và vì vậy tôi đã thôi cầu xin Chúa giúp tôi nghĩ ra và sắp xếp câu trả lời. Mệnh đề thứ nhất diễn tả một điều khó khăn hoặc thậm chí một sự hồ nghi rất nhiều ở ben ngoài tâm trí tôi; nhưng mệnh đề thứ hai chỉ cho thấy một điều chắc chắn, một điều chắc chắn đang diễn ra ở một mức độ rắt sâu xa. Ở môt mức độ nào đó, tôi tự nhủ liệu tôi có thể chứng minh cho sự hài lòng của riêng mình, bỏ mặc sự hài lòng thoả mãn của một ai khác, rằng một Đấng Thiên Chúa yêu thương hiện hữu. Ở một mức độ sâu xa hơn, tôi chỉ đơn thuần hướng về Người và thỉnh cầu. Ở một mức độ nào đó, tôi khó chịu vì đủ thứ câu hỏi hóc búa và những phiền toái luôn đi theoi sát cuộc mạo hiểm nầy mà chúng ta gọi là Đức Tin. Nhưng ở một mức độ sâu xa hơn,  vấn đề nầy đựôc giải quyết vượt trên mọi nghi ngờ. Tôi có thể nêu lên một ngàn vấn nạn về Thiên Chúa, nhưng tôi sẽ chẳng một chút do dự hướng về Thiên Chúa để có câu trả lời.

   Trong công trình hộ giáo nầy, việc đặt cạnh nhau giữa một sự nan giải và một sự chắc chắn rất thông thường là điều cuối cùng phải được đề cập đến. Chúng ta giải quyết trước hết những lập luận đặc trưng để làm tan đi những phản đối về điểm nầy hoặc điểm nọ của đạo tự nhiên hoặc của Mạc Khải; kế đến, chúng ta chọn ra tất cả mọi động cơ khiến chúng ta tin cậy (chẳng hạn sự chịu đựng của Giáo Hội hoặc sự thánh thiên cuả các thánh), là điều có khuynh huớng làm cho tâm trí chúng ta vươn tới  chân lý Kitô giáo; sau đó, chúng ta xem xét những gì John Henry Newman đã gọi là khả năng gây do dự, điều đòi hỏi Kitô giáo phải như chính nó là.

Chỉ sau khi tất cả những điều nầy được giải quyết ổn thoả, thì chúng ta mới xét đến  sự xác tín mà đức tin truyền đạt cho thấu mức độ sâu thẳm nhất của cuộc sống chúng ta. Hộ giáo cho thấy, không giống như chính Hộ giáo,hình như sự xác tín như thế không phải là một sự chuẩn bị cho đức tin, mà đúng hơn sự xác tín như thế là chính sự kiện đức tin, ân sủng lãnh nhận được, nay là một thực tế không thể chối cãi được. 

CỦNG CỐ ĐỨC TIN CỦA MỘT NGƯỜI.
Trong nhiều cách thế, Kitô giáo có bên trong mình một Catch – 22  [tình huống tiến thoái lưỡng nan. Cụm từ catch-22 rất khó dịch.ND]. Chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đức Chúa mà nhờ Người mọi sự đã được tạo thành, Chúa Tể tuyệt đối của vũ trụ, Đấng Quan Phòng sắp xếp thứ tự mọi sự. Người yêu thương chúng ta nhiều đến nỗi đã cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi của chúng ta. Không gì có thể hoàn hảo tốt đẹp hơn, cho dù chúng ta đang sống trong một thung lũng nước mắt đã thành cách ngôn. Hơn nữa, khi quay về Thiên Chúa trong những lo lắng muộn phiền, chúng ta  tin chắc rằng tất cả mọi lời cầu nguyện được nhận lời – nhưng đôi khi (có thể là thông thường) câu trả lời là không. Điều đó làm tức giận,nhưng chúng ta cũng có thể quay mặt với chính nghịch lý nầy. Vì chúng ta không ngừng kinh nghiệm sự thất bại, như Chúa Kitô đã làm trước chúng ta, tuy thế` chúng ta vẫn là những người vui sướng nhất, có được an bình nội tâm vượt xa bất cứ thứ gì mà một con người nào thành đạt  nhất trên đời có thể có được.

Thỉnh thoảng, đứng trước các khó khăn hoặc thất vọng hoặc chán nản, chúng ta cần nhắc nhủ mình về tất cả những lý do ngoại tại mà chúng ta đã chấp nhận Đức Tin đầu hết. Chúng ta cần phải xem xét lại lần nữa những lý lẽ về sự hiện hữu của Thiên Chúa và tính bất tử của linh hồn, để đoan chắc lần nữa ý nghĩ rằng sự thừa nhận những điều nầy không phải là phi lý. Chúng ta cần nhớ rằng cách giải thích hợp lý nhất về ngôi mộ trống và lịch sử Giáo Hội thời sơ khai khác xa  việc Chúa Giêsu Kitô thật sự đã sống lại từ kẻ chết. Chúng ta hưởng lợi từ việc làm quen trọn vẹn hơn với cái lô-gic nội bộ về quyền bính của Đức Giáo Hoàng trong một Giáo Hội phải đại diện cho một thoả ước với thế giới cho đến tận thế. Chúng ta cố thăm dò sâu hơn nữa các bản tường thuật những phép lạ đã được kiểm chứng kỹ càng và không có giải thích nào khác ngoài quyền lực của Thiên Chúa và suy tư sâu xa hơn nữa về nhiều loại phép lạ mà chính chúng ta đã trải nghiệm - những thời khắc hiếm hoi và qúy giá trong đó hành động của Thiên Chúa  có thể nhìn thấy được không thể nhầm lẫn bằng tâm trì và bằng các giác quan.

Cũng vậy, chúng ta biết khôn khéo xem xét lại những khía cạnh đặc biệt của Kitô giáo, mà hầu hết làm cho chúng ta, - mỗi khía cạnh theo cách độc nhất của nó, - chấp nhận một cách dễ dàng hơn chân lý của nó. Với người nầy, sự kiên định bền vững tinh thần đặc biệt của giáo lý Công giáo qua hai ngàn năm cung cấp một động cơ mãnh liệt để tin rằng Giáo Hội phải đưọc chính Thiên Chúa soi sáng. Với người khác, sự sinh hoa kết trái dồi dào tuyệt diệu trong mọi hình thức việc lành do các thánh nhân,có thể dẫn người ấy tới sẵn sàng hơn để tin cậy Hội Thánh đã chăm sóc dạy dỗ họ. Với người khác nữa, sự việc Hội Thánh qua các thời kỳ đã nhiều lần nhấn mạnh rằng ngăn trở chính cho tiến bộ nhân loại do những người ủng hộ hết chế độ ý thức hệ nầy sang chế độ ý thức hệ khác (tất cả đều xung khắc nhau) đủ để nói rằng có một điều gì đó rất đặc biệt về Hội Thánh. Với chính tôi, tôi nhận thấy rằng khitôi suy nghĩ về những gì Hội Thánh yêu cầu tôi trở thành với tư cách một con người, thì tôi không thể tưởng tượng ra được một kiểu mẫu nào tốt hơn hoặc cao qúy hơn. Điều đó cũng là một lý do sự đáng tin.

KINH NGHIỆM ĐỨC TIN
Rất cần nuôi dưỡng về mặt thiêng liêng tâm trí chúng ta theo cách nầy và còn cần hơn nữa là phải nhiệt tâm trong việc tránh né những thói quen luân lý ngược với đức tin của chúng ta, vì nếu có bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống chúng ta để lâu không được thay đổi, thì khía cạnh đó có thể bị dùng như một cái nêm để biến mọi khó khăn và  thử thách thành những vật bị loại bỏ. Khi chúng ta trở nên ươn lười trong việc chấp nhận những ý tưởng văn hoá hủy hoại các nguyên lý Kitô giáo, bằng việc từ chối sử dụng trí khôn để nhìn xem chân lý thật sự nằm ở đâu; hoặc khi trở nên lười biếng trong việc chấp nhận những thói quen trần tục hoặc những thói hư nết xấu, bằng việc từ cjối sử dụng ý chí của chúng ta để hoàn tất những gì mà một cuộc sống thật sự kết hợp đòi hỏi. Rồi chúng ta để cho những sự vật phát triển trong tâm hồn chúng ta đến mức có thể làm cho quà tặng đức tin bị lâm nguy khi chúng ta ngaỳ càng ước ao thoát khỏi Thiên Chúa

Nhưng không có bất cứ lập luận có tính hộ giáo nào, bất cứ động cơ sự đáng tin nào hoặc thói quen luân lý nào trong những lập luận, động cơ hoặc thói quen nầy tự nó là đức tin. Không có điều nào trong những điều nầy cấu thành sự xác tín sâu xa chỉ đến qua một hồng ân của Chúa mà thôi. Vì đức tin không chỉ là một hồng ân, mà là cuộc sống của Một Đấng Khác, Ba Ngôi ngự trong linh hồn chúng ta. Để đáp lại, chúng ta dần dà học chuyện vãn với Thiên Chúa trong cầu nguyện, để cho sự tiếp đón Chúa của chúng ta đừng nên nguội lạnh và chúng ta trở mặt với Người. Ở chính trung tâm sự sống chúng ta, như thế, chúng ta biết Chúa, cảm nhận sự hiện diện của Người và nhận biết công trình của Người trong chúng ta. Tôi đã từng nói rằng sự hiện diện nầy của Thiên Chúa bên trong chúng ta nói chung rất khó thấy. Nhưng Thánh Phaolô diễn tả nó như sau :”Tôi đã bị đóng đinh thập giá với Chúa Kitô. Không còn là tôi sống nữa, mà là Chúa Kitô sống trong tôi. Và cuộc sống tôi sống bây giờ trong thân thịt, tội sống nhờ đức tin nơi Con Thiên Chúa” ( Gl 3,20)

Theo tôi, cần phải hiểu rằng đức tin không thể hoạt động một cách hợp lý trong bất cứ cách nào khác. Kitô giáo phải được cân bằng sao cho những gì chúng ta nhìn thấy bằng con mắt xác thịt, không bao giờ đủ để ép buộc chúng ta phải cải tâm, hoặc một điều gì thay vào sự cải tâm ấy. Vì Thiên Chúa đã tạo ra chúng ta cách chính xác đến mức chúng ta có thể yêu thương và tình yêu phải luôn vượt trên tư lợi qua một hành động tự do của ý chí. Thánh Phaolô lần nữa diễn tả điều nầy hết sức hay : “Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ muôn loài thọ tạo cùng rên xiết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên xiết trong lòng; chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Quả thế chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là trông mong nữa, vì ai lại trông mong những điều mình đã thấy rồi? Nhưng nếu chúng ta trông mong điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ”. (Rm 8,22 – 25)

NGHỊCH LÝ CHỦ YẾU
Nếu tin cậy vào những điều không nhìn thấy được là một nghịch lý, thì sự kiện đáng ngạc nhiên là chúng ta, các tín hữu, chắc chắn đó là một nghịch lý đúng, nghịch lý  trước hết tỏ ra lố bịch nhất, nhưng cuối cùng lại chứng tỏ là đúng thật nhất, bí mật cho mọi nghịch lý đời sống khác. Một lần nữa, đây là sự xác tín đức tin, sự hiểu biết sáng sủa, - như lời Newman, - mà muôn vạn khó khăn không thể gây ra nghi ngờ - sự kiện không thể bác bỏ là tôi biết Chúa và Chúa biết tôi

Hãy nghe Thánh Phaolô lần nữa :“Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế chúng ta không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (2 Cor 4, 16 – 18)

Giờ đây tôi không nói rằng đây là lập luận mà anh phải dùng để giup chuẩn bị cho một ai đó khai tâm đón nhận đức tin. Dù sao thì khó nói đây là một lập luận biện giáo để bắt một ai khác phải tin vì tôi chắc chắn (dù một người nào khác có thể thấy rõ trong cuộc sống của tọi rằng sự chắc chắn nầy mang một hoa trái tuyệt vời, mà người đó cũng ước ao chia sẻ). Điều tôi muốn nói, đúng hơn, đó là nếu bạn là một tín hữu bị ngã lòng trông cậy, đang xem xét một vài khó khăn, tôi cho rằng bạn sẽ tìm thấy rằng ở một mức độ sâu xa hơn, thực sự bạn chẳng có nghi ngờ thật sự nào hết. Bạn có thể bị bối rối hoặc thậm chí bực bội vì tất cả những khó khăn chúng ta phải đương đầu (mặc cho chúng ta cầu nguyện nhiều), nhưng nếu bạn suy tư nhiều hơn một chút nữa, bạn sẽ khám phá ra rằng nhận thức của bạn về Thiên Chúa vẫn còn hoàn toàn không chút gợn sóng và rằng cả khi bạn bối rối và kinh hãi, bạn vẫn neo chặt vào Người

Đây không phải là điều phi lý. Bởi vì tự sâu thẳm nội tâm, đơn thuần là bạn biết.
Và đó là Đức tin.

Nguồn : CatholicCulture.org 07.11.2008
Tiến sĩ Jeff Mirus
BTGH chuyển ngữ và giới thiệu (15-9-2009)


Nhóm tác giả - Việtnam

 

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)