VIII.
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LAVANG, VIỆT
NAM
KỶ NIỆM 200 NĂM 1798-1998
LỜI
MỞ ĐẦU
Năm
1998 này, toàn thể Giáo Hội Việt Nam trong cũng
như ngoài nước, các Giáo Phận cũng
như các Cộng Đoàn Giáo Xứ, hết mọi
phần tử Giáo Hội Việt Nam đang long
trọng dọn mừng Kỷ Niệm 200 năm
Đức Mẹ hiện ra tại Lavang (1798-1998).
Thực mà nói, từ trước tới nay ít
ai nói về Đức Mẹ Lavang, cũng ít người
kể chuyện về Lavang, đến độ
hẳn nhiều người không biết Lavang
là gì, nằm ở đâu, Đức Mẹ hiện
ra thế nào, năm nào, nhằm mục đích
gì nữa?
Nhân
dịp Năm Toàn Xá kỷ niệm Đức
Mẹ hiện ra trên quê hương Việt Nam
mình, chúng tôi mạo muội đi tìm hiểu và
ghi lại đây những gì chúng tôi được
biết để cống hiến quí vị, hy
vọng quí vị hiểu thêm về biến cố
đặc biệt đã xẩy ra trên quê hương,
và cũng là cách thế tốt giúp quí vị thêm
lòng kính mến, cậy tin ở Đức Mẹ
Lavang, Mẹ của niềm an ủi và cậy
trông.
I.
TÂM THƯ
Đức
Hồng Y Phạm Đình Tụng
Gửi Giáo Dân Việt Nam
Chuẩn Bị Mừng Kính 200 NĂM MẸ HIỆN
RA TẠI LA-VANG
Để
chuẩn bị ngày kỷ niệm 200 năm Đức
mẹ hiện ra tại Lavang, Việt Nam. Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam gửi chúng
ta đôi lời chuẩn bị nhân dịp Hội
Nghị Thường Niên ngày 11 tháng 10 năm 1997:
Năm
1998 là năm đặc biệt đối với
hết thảy chúng ta, Giáo Hội Việt Nam mừng
kỷ niệm 200 năm Đức mẹ hiện
ra (1798-1998) an ủi, phù hộ giáo hữu trong
cơn bách hại. Hiệp với lời mời
gọi của Đức Thánh Cha, chúng tôi tha thiết
mời anh chị em đi vào năm ân sủng
này, với tất cả tấm lòng hiếu thảo
mến yêu Mẹ Maria, và hân hoan bước theo
Mẹ trong cuộc hành trình Đức Tin chan hòa
YÊU THƯƠNG và HY VỌNG. Xin Mẹ đưa
chúng ta đến cùng Chúa Giêsu là Đấng cứu
độ hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời".
Đại
lễ kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ
hiện ra tại Lavang là một biến cố
tôn giáo trọng đại, là lễ chung của
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Ngày 20 tháng 10 năm
1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ban phép
mở năm Toàn Xá cho toàn thể Cộng đồng
Tín hữu Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm
200 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lavang.
Mục đích năm Toàn Xá Đức Mẹ Lavang
là để giúp mọi tín hữu sám hối, đổi
mới đời sống, học hỏi và noi
gương Mẹ, nhờ Mẹ đón nhận
hồng ân Toàn Xá.
Chủ
đề Năm Toàn Xá Mẹ Lavang là: "Cùng
Mẹ tiến về Năm Thánh Toàn Xá 2000",
Chủ đề này được khai triển
theo tinh thần và nội dung Tông Thư "Tiến
về Ngàn năm Thứ Ba" của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô, gồm các đề tài chính
này:
1.
Sống Đức Tin theo gương Mẹ.
2. Sống Phó Thác, cậy trông noi gương Mẹ.
3. Sống Mến Yêu theo gương Mẹ
4. Tìm biết sự tích và biến cố Mẹ
hiện ra tại Lavang.
Năm
Toàn xá Đức Mẹ Lavang được khai
Mạc trọng thể tại Thánh Điạ
Lavang lúc 09 giờ ngày 01 tháng 01, 1998. Và bế mạc
Năm Thánh ngày 15 tháng 8, 1999 (hơn một năm).
Tam
Nhật Đại Lễ tại Lavang được
cử hành từ ngày 13 đến 15 tháng 8 năm
1998.
Tin
tưởng vào lòng hiếu mến Mẹ Lavang
cùng sự hưởng ứng tham dự của
anh chị em, Đại lễ sẽ được
cử hành long trọng, thánh thiện và đem
lại nhiều ơn ích cho mọi người.
Xin Mẹ Lavang chúc lành cho Năm Toàn Xá.
Hà
Nội ngày 08 tháng 12 năm 1997
Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Hồng Y Giuse Phạm Dình Tụng.
KINH
THÁNH MẪU LAVANG
Lạy
Mẹ Maria,Thánh Mẫu Lavang, đầy muôn ơn
phước, ngời chói hào quang, muôn vàn thần
thánh không ai sánh bằng. Đức Chúa Trời
đã đoái thương chọn Mẹ, tinh tuyền
thánh thiện, sinh Đấng cứu độ
muôn loài, Mẹ đã chọn Lavang mà hiện đến,
cứu giúp hộ phù tổ tiên chúng con lương
giáo, giữa thời ly loạn cấm cách, khốn
khổ trăm bề.
Từ
ấy gót chân Mẹ bước đến, vẫn
mãi đầy ơn thiêng, ơn phần hồn,
ơn phần xác. Từ người bệnh tật
đến kẻ ưu phiền, nào ai cầu
khấn mà Mẹ không nhận lời.
Lạy
Mẹ Maria, Thánh Mẫu Lavang, Mẹ là Thánh Mẫu
Chúa Trời, cùng là Thánh Mẫu loài người
chúng con.Cúi xin xuống phước hải hà, đoái
thương con cái thiết tha van nài.
Xin
cho chúng con tấm lòng từ bi nhân hậu, đại
lượng bao dung, cùng nhau bồi đắp
nền văn minh tình thương và sự sống.
Xin Mẹ phù hộ chúng con, luôn sống đức
hạnh, đầy lòng cậy trông. Và sau cuộc
đời này, xin cho chúng con được về
sống bên Mẹ, hưởng vinh phúc trong Chúa
Ba Ngôi muôn đời. Amen.
(Kinh
này đã được Đức Cha Stêphanô Nguyễn
như Thể Giám Quản Tông Tòa Tổng Giáo Phận
Huế phê chuẩn ngày 08 tháng 12, 1997, để
dùng cho Năm Toàn Xá Đức Mẹ Lavang, khai
mạc ngày 1 tháng 1, 1998 và bế mạc ngày 15 tháng
8, 1999).
II.
Sứ Điệp Ban Ơn Toàn Xá
Kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiên
ra tại Lavang
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Ngày
1 tháng 1 năm 1998, Giáo Hội Việt Nam đã
khai mạc Năm Thánh Toàn Xá Lavang, kỷ niệm
200 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lavang
để an ủi các con cái đau khổ trong
cơn bắt bớ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đã gửi một Sứ Điệp đặc
biệt nói lên sự thông hiệp của Giáo Hội
hoàn vũ với năm hồng ân của Giáo Hội
Việt Nam. Bức Sứ Điệp như sau:
Kính
gửi,
Đức
Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, Tổng
Giám Mục Hà-Nội, Chủ Tịch Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam.
Nhân
dịp khai mạc Năm Toàn Xá, Kỷ niệm
200 năm Đức Trinh Nữ Maria hiện ra
tại Lavang, tôi thành thực chia vui và tạ ơn
Chúa với các anh em cũng như toàn thể tín
hữu Việt Nam.
Tại
Đền Thánh này là nơi vốn được
mọi tín hữu Việt Nam quý mến, đã
vang lên một Sứ Điệp đầy hy
vọng mà Mẹ Thiên Chúa đã gửi đến
con cái người vào năm 1798; giữa những
thống khổ tinh thần và thể xác, khi Mẹ
nói: "các con hãy tin tưởng và hãy vui chịu
mọi khổ đau, vì Mẹ đã nhậm lời
các con cầu xin. Từ nay về sau, hễ ai
đến đây kêu cầu Mẹ, thì sẽ được
toại nguyện".
Trải
qua hơn hai thế kỷ, mà lời Mẹ Lavang
vẫn luôn được mọi tín hữu sốt
sắng đón nhận. Mặc cho những thử
thách lớn lao ghi dấu vào giòng lịch sử
của Lavang. Nơi đây đã trở thành Trung
Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc, đã liên tục duy
trì các cuộc hành hương như một truyền
thống sinh động. Hết mọi người,
mọi thành phần, mọi hoàn cảnh, đều
thầm kín đến phó thác cho Mẹ những
khắc khoải lo âu và những kỳ vọng
của họ. Giám mục, Linh mục, Tu sĩ
nam nữ, giáo dân... Hết thảy đều
tìm được ở chính nơi đây một
lòng can đảm vững vàng, để sống
đời Kitô hữu, giữa những hoàn cảnh
khó khăn. Tôi tán dương Chúa, vì Ngài đã không
bao giờ bỏ rơi đoàn chiên cố công
tìm kiếm Ngài, và sự phù trợ của hiền
mẫu Maria, Đấng vẫn tiếp tục
dẫn dắt đoàn dân này trong những ngày hạnh
phúc cũng như trong khi khốn đốn.
Trong
Năm Toàn Xá này, tôi cầu chúc cho hết những
ai đến cầu nguyện tại Đền
Thánh Mẹ, hoặc ở những nơi chỉ
định khác, được tìm thấy một
sự thúc đẩy mạnh mẽ nơi đời
sống Kitô hữu của họ, và nhận lãnh
ơn an ủi và sức mạnh để đương
đầu với những âu lo trong cuộc sống.
Tôi mời gọi họ nhìn thấy nơi Đức
Maria một người Mẹ mà chính Chúa Giêsu
đã ban tặng cho loài người, một người
Mẹ đã dẫn dắt họ đến với
Con Chí Thánh của mình.
Vì
đã sống cách hoàn hảo thân phận người
môn đệ Chúa Kitô, Mẹ kêu gọi các tín hữu
tiến bước trên con đường sống
Tin Mừng hăng say. Ước gì Mẹ lôi cuốn
họ thành người lữ hành kiên vững
trong niềm tin vào Đức Kitô là Đấng
Cứu Độ duy nhất của nhân loại,
thành người lữ hành của niềm hy vọng,
hướng tới sự mong đợi giờ
phút Thiên Chúa gặt hái mùa màng đã gieo vào lòng đất,
thành những lữ hành của lòng bác ái, sống
ơn gọi hơpl nhất, huynh đệ và
phục vụ giữa các anh chị em mà họ
cùng chia sẻ cuộc sống.
Trong
khi chúng ta bước vào năm thứ hai chuẩn
bị năm Đại Toàn Xá 2000, năm dành riêng
cho Chúa Thánh Thần, tôi động viên người
Công Giáo Việt Nam hãy chiêm ngắm Mẹ Maria,
hình ảnh một người nữ khiêm tốn
trong nhân loại đã để cho tác động
bên trong của Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Mẹ kết hiệp đậm đà và sâu xa
với Thiên Chúa, Mẹ đã trung thành và trọn
vẹn vâng theo các lời mời gọi của
Ngài. Ước gì mọi người có thể
khám phá ra nơi Mẹ một người nữ
thầm lặng và lắng nghe, suy đi nghĩ
lại trong lòng những gì mà Chúa Thánh Thần của
Thiên Chúa đã soi sáng cho Mẹ nhận thức:
Đó là sự hiện diện ưu ái và tác động
thánh hóa của Ngài. Mẹ không hề chán nản,
thất vọng vì các khó khăn, Mẹ đã thể
hiện đầy đủ khát vọng tiềm
ẩn nơi những người nghèo của
Thiên Chúa. Do đó Mẹ là mẫu gương sáng
ngời cho những ai thành tâm tin tưởng vào
lời hứa của Chúa.
Tôi
đồng tâm hiệp ý trong lời cầu nguyện
với đông đảo khách hành hướng
về Lavang, và tha thiết khẩn cầu Mẹ
Chúa Kitô, Mẹ nhân loại, cho toàn thể dân tộc
Việt Nam, cũng như cho các Cộng Đoàn
Kitô Hữu người Việt ở hải ngoại.
Ước gì họ đặt tín tưởng
vào Trinh Nữ Mẹ Rất Thánh, Đấng đang
đồng hành với họ trong cuộc lữ
hành trần thế với tất cả tình mẫu
tử. Dù sống bất cứ ở đâu, ước
gì họ là những môn đệ của Chúa Kitô,
trung thành và quảng đại làm chứng nhân
cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa giữa anh chị
em mình.
Kính
thưa Đức Hồng Y,
Trong
dịp hồng phúc kỷ niệm 200 năm Đức
Trinh Nữ hiện ra tại Lavang, tôi thân ái gửi
Phép Lành Toà Thánh đến ngài, cũng như đến
các Giám Mục, Linh Mục, những người
đang chuẩn bị làm Linh Mục, các Tu Sỹ
Nam Nữ và toàn thể Tín Hữu ở Việt
Nam và Hải Ngoại.
Vatican
ngày 16 tháng 12 năm 1997.
Gioan Phaolô II Giáo Hoàng.
TÓM
LƯỢC
LỊCH SỬ BIẾN CỐ ĐỨC MẸ
HIỆN RA
TẠI LINH ĐỊA LAVANG
Linh
Địa Lavang nằm trong khu vực Giáo Xứ
Dinh Cát, thuộc tỉnh Quảng Trị, cách thị
xã Quảng Trị 6 cây số và cách Cố Đô
Huế 58 cây số.
1.
GIÁO XỨ DINH CÁT
Theo
lịch sử thì Dinh Cát là miền đất
cũ thuộc dân tộc Chàm. Nhưng đến
năm 1307 vua Chàm cắt vùng đất từ
sông Đông Hà qua đèo Hải Vân dâng cho nhà Trần
để làm sính lễ cưới Huyền Trân
Công Chúa. Vùng đất nhượng quyền này
được nhà Trần chia thành 2 châu (Châu Thuận
và Châu Hoà). Dinh Cát thuộc Châu Thuận được
đặt làm thị trấn gọi là Thuận
Thành rất trù phú và đông đúc. Trải qua
68 năm Nhà Nguyễn Hoàng đóng dinh tại đây
(1558-1626), khiến Cát Dinh đã thành nơi mậu
dịch rất sầm uất với người
ngoại quốc.
Vị
Linh Mục đầu tiên đặt chân lên xứ
Dinh Cát vào năm 1595 là cha Diego Aduarte Dòng Đaminh.
Sau có cha Phanxicô Buzomi từ Áo Môn (Trung Hoa) sang và
được phép giảng đạo từ
Quảng Nam tới Phú Yên. Rồi đến các
cha khác tiếp nối. Mãi đến 1689 cha Lorenso
Lân mới chính thức là cha sở đầu
tiên của xứ Dinh Cát. Sau 24 năm phát triển
(1693-1717) thì đến thời (Chúa Minh Vương)
bách hại, nhiều người chết vì đức
tin. Tiếp đến những cuộc tranh chiến
kế tiếp suốt 37 năm (1765-1802) đã
khiến trăm họ lầm than, đến
lòng trời cũng phải xúc động. Mẹ
Chúa đã hiện ra tại Lavang, để an
ủi kẻ âu lo, cứu giúp con cái lầm than
của Mẹ.
2.
PHƯỜNG LAVANG
Vào
thế kỷ XV, xứ Dinh Cát gồm 2 Huyện,
134 xã, 9 thôn và nhiều Phường. Làng Cổ
Vưu là một Họ Đạo lâu đời
thuộc Xứ Dinh Cát, được thành lập
vào thế kỷ 17, đời nhà Lê và quản
thu đời Gia Long (Theo sử liệu cha Lorense
Lân viết lại ngày 17.2.1791). Dân làng phải
đi vô rừng sâu tới 7 cây số để
phá rẫy trồng khoai, cấy lúa. Trong làng Cổ
Vưu có phường Lá Vắng (Vì trong vùng có
nhiều cây tên là Lá Vắng, có hột đen ăn
được và lá cây lại là một vị
thuốc, nên dân trong vùng dùng lá sắc lên uống
chữa bệnh, do đó dân vùng lấy tên cây mà
đặt cho phường như trong địa
bộ. Về sau người ta đọc trại
ra là Lavang như ngày nay). Vậy chiếu theo địa
bộ đời nhà Lê, Lavang đã được
thành lập trên 200 năm. Cũng theo những
lời truyền miệng của tiền nhân thì
cách đây hơn 200 năm, dưới đời
vua Cảnh Thịnh (tức Nguyễn Quang Toản)
một biến cố hãi hùng do cuộc cấm
đạo và chiến tranh đã khiến cho dân
chúng xung quanh Dinh Cát phải chạy vào Lavang để
lánh nạn.
3.
ĐỨC MẸ HIỆN RA
Trong
lúc lánh nạn, họ thường tụ họp
nhau mỗi tối để cầu nguyện,
lần hạt. Bỗng nhiên họ thấy một
bà đẹp mặc áo choàng hiện ra gần
cây đa cổ thụ, mà họ nhận biết
là Đức Mẹ vì có bồng Chúa Hài Đồng
và có 2 Thiên Thần cầm đèn chầu. Đức
Mẹ ngỏ lời an ủi và dạy họ
bẻ lá cây xung quanh đó mà nấu nước
uống thì sẽ được lành bệnh.
Đức Mẹ còn hứa từ nay về sau
những ai đến đây cầu khẩn Mẹ,
thì Mẹ sẽ ban ơn phù trợ. Đức
Mẹ còn hiện ra với họ nhiều lần
khác nữa. Theo sách Vãn Lavang có kể rằng:
Trời
sinh cái chốn lạ lùng,
Tự nhiên giữa núi nên cung Chúa Bà.
Truyền rằng có một cây đa,
Mọc trên núi nọ gọi là Lavang.
Ngày thì hạc phụng dạo chơi,
Đêm thì hổ báo chầu nơi linh hoàng.
Chốn này linh ứng nghiêm trang,
Hai bên khe ruộng giữa làng Lavang....
Điều
đáng tiếc là không ai biết được
Đức Mẹ hiện ra chính xác vào năm nào,
nhưng theo tục truyền thì Đức Mẹ
hiện ra vào lúc nước nhà đang xảy
ra những cuộc nội chiến thật bi
đát và lầm than (1765-1802).
Nhưng
theo sử liệu định mức sự đen
tối nhất là thời Vua Cảnh Thịnh
(Nhà Tây Sơn) bắt đạo. Lý do là sau khi
vua Quang Trung mất (9/1792), Nguyễn Quang Toản
mới 13 tuổi lên ngôi, lấy hiệu là Cảnh
Thịnh, nên mọi việc do các quân thần nhiếp
chính. Sau khi bắt được lá thư của
Nguyễn Ánh gửi cho Đức Cha Labartelle xin
giúp đỡ, vua Cảnh Thịnh sinh ghét Đạo
Công Giáo và ra sắc dụ cấm đạo từ
Phú xuân ra Bắc (8/1798). Lại cho lính đi lùng
bắt các vị Thừa Sai Pháp đã đứng
ra giúp Chúa Nguyễn Ánh. Nhiều người Công
Giáo thuộc vùng Cổ Vưu, Thạch Hãn... chạy
vào lánh nạn tại phường La Vang, giữa
vùng núi rừng hiểm trở. Trong lúc lánh nạn
ở đây, ban đêm họ họp nhau cầu
nguyện và lần hạt Mân Côi. Thấy cảnh
khổ của họ, Đức Mẹ thương
hiện ra để an ủi các con cái Mẹ đang
bị bách hại.
Đời
các vua kế tiếp như Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức cũng đều ra
những sắc dụ cấm đạo cách ráo
riết. Điều đáng tiếc là các bút tích
lịch sử về biến cố lạ thường
xẩy ra tại Lavang do Đức Cha Labartelle
để lại cùng với văn khố của
Địa Phận Bình Trị Thiên đều
bị thiêu đốt đến 2 lần. Ngay
cả đến các sách vở, tài liệu của
Đức Cha Sohiu Bình (1861) được chôn
dấu tại Huế cũng bị đào lên
và đốt hết, nên không còn bút tích nào để
lại. Sau này các giáo hữu được thấy
Đức Mẹ hiện ra cũng chỉ biết
kể lại với những người quen
thân chòm xóm. Và rồi từ miệng người
này qua người khác, sự tích Đức Mẹ
Lavang được biến thành một lời
truyền tụng không sức nào có thể dập
tắt được.
4.
NGÔI ĐỀN THỜ ĐẦU TIÊN
Người
thời xưa còn kể: Người địa
phương thường hay đến khấn
vái dưới gốc cây đa ở phường
Lavang. Khi biết có Bà linh thiêng hiện ngự
tại đây nên họ lập đàn cầu khẩn.
Đến thời vua Minh Mạng, ba làng Thạch
Hãn, Cổ Vưu và Ba Trừ lại chung nhau dựng
chùa dưới gốc cây đa để cúng
vái, những sau bị động họ phải
rút lui. Sách vãn Lavang có kể:
Dân
ta chớ khá công nài,
Bứt tranh, đốn củi để mai làm
chùa.
Làm rồi khi ấy đi mua,
Hương đèn, lễ vật dọn chùa sửa
sang.
Dọn ra Thần Phật hai hàng,
Lư Hương, bát nước nghiêm trang đề
huề.
Làm rồi chức dịch đi về,
Nhân dân lao khổ ê hề bấy lâu.
Về nhà nghỉ giấc canh thâu,
Tự nhiên mộng mị chiêm bao rập ràng.
Trên chùa Thần Phật rộn ràng,
Về bắt chức dịch mấy làng xôn xao.
Rằng Phật, rằng Thần lao đao,
Có Bà bên Đạo phép cao la lùng.
Bà về Bà đánh tứ tung,
Bao nhiêu thần Phật đều tung ra ngoài.
Tiếng Bà thật đã linh oai,
Lư hương, bát nước, đề đài
đều hư.
Chức lành thức dậy lao lư,
Hỏi ai cũng mộng giống như một
điềm.
Sáng rồi cất bước đi liền,
Đến xem sự việc nhân tiền ra sao.
Xét coi trong lúc chiêm bao,
Hoặc hư hoặc thiệt thế nào cho yên.
Kéo nhau vừa tới ngoài hiên,
Thấy ngôi Thần Phật ngả nghiêng ngoài
đường.
Kêu lên đôi tiếng ngỡ ngàng,
Bảo nhau thu vác về làng cho mau.
Tưởng rằng Thần Thánh linh mầu,
Linh Bà còn hóa phép mầu nhiều hơn.
Sau
những chuyện lạ xảy ra, ba làng bèn bàn
nhau dâng chùa Lavang mới làm cho bên Công Giáo. Sau khi
Ông Chức nhận đất và Chùa ba làng nhượng
cho, ông liền trình cha bổn sở. Ngôi chùa được
biến thành Đền Thờ Công Giáo đầu
tiên tại Lavang, trên nơi chính Đức Mẹ
hiện ra. Cũng từ đó sự tích Đức
Mẹ hiện ra tại Lavang cũng được
viết ra và loan báo đi khắp nơi. Như
thế, ngay từ đầu đối với
vấn đề Lavang, Giáo quyền đã không
im hơi lặng tiếng đâu. Chỉ tiếc
các bút tích ấy sau này cũng bị thất lạc
cả.
Những
năm sau, nhiều gia đình kéo nhau tới Lavang
dựng nhà lập nghiệp, nhưng cũng không
ổn vì Đảng Văn Thân (1883) nổi dậy
gây ra nhiều cuộc tàn sát người Công Giáo
từ Qui Nhơn ra đến Quảng Trị,
Thừa Thiên. Theo bản thống kê của Đức
Cha Gaspa, vào thời Đảng Văn Thân nổi
lên, đã giết chết 6 Linh Mục, Chủng
Sinh Toma Thiện, trên 60 nữ tu Dòng Mến Thánh
Giá và 7041 giáo dân thuộc 45 Họ Đạo của
xứ Dinh Cát. Ngoài ra các nhà thờ, tu viện,
nhà xứ, nhà ăn và làng xóm đều bị
đốt phá bình địa. Một số trốn
thoát được là nhờ chạy trốn
vào Huế, hoặc lên rừng núi ẩn núp.
5.
ĐỀN THỜ TRANH LAVANG THỨ HAI
Ngôi
Đền thờ Đức Mẹ Lavang đầu
tiên, chính là ngôi chùa lợp lá thô sơ được
sửa lại, do các làng ngoại giáo nhượng
lại (1798). Đền thờ này đã bị
Văn Thân thiêu hủy vào năm 1885.
6.
ĐỀN THỜ NGÓI TẠI LAVANG
Đến
năm 1886, cuộc cấm đạo được
vãn hồi, giờ khải hoàn vinh quang của
Mẹ Lavang sắp điểm. Đức Cha
Gaspar Lộc quyết định xây cất cho
Mẹ một ngôi thánh đường lợp
ngói, tại chính nơi Đức Mẹ đã
hiện ra, nhưng phải mất 15 năm mới
hoàn thành (1886-1901). Lễ khánh thành từ mùng 6 đến
mùng 8 tháng 8 năm 1901 và cũng là Đại Hội
Thánh Mẫu lần thứ nhất với 12.000
giáo dân khắp các địa phận kéo về
mừng lễ, ấy là chưa kể người
ngoài Công giáo cùng đến chung vui. Từ đó
cứ ba năm lại có một lần tổ
chức Đại Hội Đức Mẹ Lavang.
7.
ĐỀN THỜ NGÓI THỨ HAI TẠI LAVANG
Từ
năm 1924 đến năm 1928 một đền
thờ mới được xây dựng để
thay thế ngôi đền thờ cũ đã bị
hư hỏng và chật chội. Đức Cha
Eugène Allys Lý đã cho phép xây và cha Morineau (Cố
Trung) Quản xứ Bửu Trung thực hiện
việc xây cất. Ngôi thánh đường với
hai tầng mái ngói và hai cánh Thánh Giá cổ điển,
cùng với cây tháp vuông hai tầng cao ngất, nổi
bật lên giữa cảnh đồi cát xung quanh
và núi rừng xa xa. Đây là ngôi nhà thờ ngói thứ
hai được xây cất, minh chứng niềm
tin kính sùng mộ Đức Mẹ Lavang của
hết mọi giáo dân toàn quốc. Đền Thờ
được khánh thành trong ba ngày (20-23-8-1928)
với đầy đủ bộ mặt giáo
dân của toàn quốc tham dự. Đây cũng
là lần đầu tiên tổ chức Đại
Hội Lavang Cấp Toàn Quốc lên tới 30 ngàn
người tham dự.
Ngày
18 tháng 3 năm 1959, Đền thờ Đức
Mẹ đã xuống cấp theo thời gian, nên
cha sở Trần văn Tường đã ra sức
quyên góp để tu sửa nhà thờ. Ngày 22 tháng
8 năm 1961, Đức Tổng Giám Mục Ngô
Đình Thục đã cử hành lễ Xức
Dầu Đền Thờ để được
nâng lên bậc Vương Cung Thánh Đường
trước đoàn giáo hữu toàn quốc lên
tới trên ba trăm ngàn người đến
tham dự.
Sau
khi Đức Thánh Cha Gioan 23 chính thức thiết
lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam theo sắc chỉ
ra ngày 24 tháng 11 năm 1960, Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam đã chọn Đên Thờ
Đức Mẹ Lavang làm Đền Thờ Toàn
Quốc dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm theo
lời hứa (xây dựng một đền thờ
dâng kính Mẹ) và nhận nơi này làm Trung Tâm Thánh
Mẫu Toàn Quốc (22-8-1961).
8.
LAVANG NHỮNG THẢM CẢNH TÀN SÁT
Quan
những năm tháng an bình, Lavang dệt nên biết
bao nhiêu sinh động. Nhưng từ dịp
Tết Mậu Thân (1968) những cảnh tang thương
ập tới, Lavang bắt đầu nhuộm
màu máu, người chết, nhà tan, cảnh trí
điêu tàn: Hành quân Hạ Lào, tái chiếm Quảng
Trị, mùa hè đỏ lửa, đại lộ
kinh hoàng (1972). Gio Linh và Lavang nằm trong vùng lửa
đạn Đền thờ Mẹ chỉ còn
trơ lại mấy bức tường và một
phần ngọn tháp cổ.
Nhìn
lại mới ngày nào mà nay đã gần hai thế
kỷ (1798-1998), Linh địa Lavang được
cả thế giới kính tôn và ham mộ. Giáo phận
Huế đã có đồ án trùng tu, nhưng chưa
thực hiện được. Tuy nhiên năm
nay là lần Đại Hội Thánh Mẫu thứ
25 vẫn được long trọng tổ chức
vào ngày 13, 14, và 15 tháng 8, 1998, để kỷ niện
200 năm Đức Mẹ hiện ra tại Linh
địa Lavang này.
9.
CÁC LẦN ĐẠI HỘI LAVANG ĐÁNG KỂ
Kể
từ khi có đền Lavang mới, từ năm
1901 đến năm 1969, có 17 kỳ Đại
Hội Thánh Mẫu đã được tổ
chức tại Linh Địa Lavang này.
Từ
Đại Hội lần thứ 1 (1901) đến
Đại Hội lần thứ 5 (1914), chỉ
tổ chức có 1 ngày tròn và rước kiệu
từ Cổ Vưu vào Lavang.
Từ
Đại Hội lần thứ 6 đến
Đại Hội lần thứ 9 (1928), tổ
chức trong 3 ngày liên tiếp. Hai ngày tại Lavang,
một ngày kiệu từ Cổ Vưu tới
Lavang.
Các
lần Đại Hội lần thứ 10 (1932),
11 (19335), 12 (1938), 13 (1955) bị gián đoạn,
mãi đến năm 1955 mới được
tổ chức lại. Cha Giacôbê Kinh, bổn sở
LaVang đã hy sinh trụ trì để gìn giữ
đền thờ Đức Mẹ suốt thời
Lavang bị Việt Cộng chiếm đóng (1948-1955).
Ngài qua đời và được chôn táng ngay
sau đền thờ Đức Mẹ.
Lần
Đại Hội lần thứ 14 (1958), kỷ
niệm Bách Chu Niên Đức Mẹ hiện ra
tại Lộ Đức, thì suốt năm tại
Linh địa Lavang cũng đã tiếp đón
trên 600,000 người tới kính viếng Đức
Mẹ.
Các
lần Đại Hội Lavang lần thứ
15 (1961), 16 (1964), 17 (1967), 18 (1969), được
tổ chức mọi cái ngay tại Lavang, kể
cả kiệu Đức Mẹ.
Từ
1971 chiến tranh xẩy ra liên tiếp và vì an ninh
không bảo đảm, nên việc tôn kính Đức
Mẹ tại Trung Tâm Lavang chỉ tổ chức
cách rất bình thường.
Nhân
dịp khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 200
năm (1998) Đức Mẹ hiện ra tại
Lavang, Đức Cha Stêphanô Nguyễn Như Thể
đã long trọng cử hành Thánh Lễ khai mạc
Năm Toàn-Xá vào ngày mùng một tháng giêng năm
1998, ngày lễ Mẹ Thiên Chúa, ngày cầu cho Hòa
Bình thế giới và cũng là ngày đầu
năm Dương lịch. Tuy không có tính cách trọng
thể nhưng giáo dân tiến về cũng lên
tới trên 10 ngàn người. Với lòng yêu mến
Đức Mẹ thật không gì có thể ngăn
cản được. Mọi người trong
và ngoài nước đều nhất tề hướng
về Mẹ Lavang.
Ngày
13, 14 và 15 tháng 8, 1998 sẽ là ngày Đại Hội
Thánh Mẫu Lavang toàn quốc lần thứ 25
tại Linh Địa này và ngày bế mạc Năm
Toàn Xá sẽ mở vào ngày 15 tháng 8 năm 1999.
10.
LINH ĐÀI ĐỨC MẸ LAVANG
Cha
Giuse Trần văn Tường được
Đức Cha Thi đặt làm cha sở Lavang,
ngài đã xây một Linh-Đài Đức Mẹ
tại trên chính nơi Đức Mẹ hiện
ra, cũng là chính nơi ngôi chùa được
di nhượng để ghi nhớ nơi Đức
Mẹ đã hiện ra an ủi đoàn con trong
những cơn sóng gió. Cuộc xây dựng Linh-Đài
Lavang được kiến thiết làm 3 đợt.
Trước Đại Hội Toàn Quốc 1955
(cuộc đại hội lần thứ 13 sau
17 năm chờ đợi - 1938-1955). Linh Đài
chỉ là một ngôi nhà tứ giác thô sơ. Sau
Đại Hội được sửa lại
vững chắc hơn. Mãi đến lúc có công
tác kiến thiết Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc,
Linh-Đài Đức Mẹ lại được
làm theo lối kiến trúc tân kỳ với 3 cây
đa tượng trưng cho sự thống nhất
của ba miền Bắc, Trung, Nam.
11.
CHÂN DUNG ĐỨC MẸ LAVANG
Trong
dịp Đại Hội Lavang lần thứ
nhất, Đức Cha Gaspar Lộc đã làm phép
tượng Đức Mẹ Lavang, ngài đặt
thực hiện tại nước Ý theo như
chân dung Đức Mẹ do chính những người
được diễm phúc thấy Đức
Mẹ kể lại: "Đầu Mẹ đội
triều thiên vàng, mình Mẹ mặc áo choàng mầu
thanh thiên phủ trên áo trắng ngà, chân Mẹ đứng
trên đám mây. Đức Mẹ ngó nhìn con cái với
nét mặt dịu hiền trong giáng điệu
uy nghi trang trọng. Hai tay Mẹ đỡ nâng
Chúa Hài Đồng đứng bên tay mặt, như
muốn đưa ra giới thiệu cùng chúng
ta. Chúa Giêsu Hài Nhi đầu đội triều
thiên vàng, mặc áo mầu hồng, chân đứng
trên trái địa cầu nhấp nháy mấy vì
sao. Chúa đứng như nương tựa vào
Đức Mẹ. Một tay níu áo Mẹ, một
tay đưa ra như mời gọi chúng ta hãy
chạy đến cùng Mẹ, để Mẹ
phù trợ và ban ơn". (Trích sách Đức
Mẹ Lavang, Nữ Vương Chiến Thắng
của Nguyễn Đình Khiêm).
Đền
Đức Mẹ Lavang cũng còn có Pho Tượng
mới, lớn hơn tượng cũ và cùng
một kiểu mẫu, do cha Sở Trần văn
Tường sắm sau khi đền thờ Đức
Mẹ được trùng tu, Tượng do một
Điêu-khắc-gia Công giáo từ Sàigòn thực
hiện (1923). Tượng được trưng
bày trên tòa cao, chính giữa gian Cung Thánh, sau bàn thờ
chính.
Khi
chọn Bổn mạng cho thánh đường
Lavang, Đức cha Gaspa Lộc đã tuyên bố:
"Đức Bà phù hộ các giáo hữu là tước
hiệu chính thức của đền thờ
Đức Mẹ Lavang" (1901).
12.
LAVANG NGUỒN ÂN PHÚC
Cha
Giuse Trần văn Tường khi viết về
Mẹ Lavang, ngài đã ghi lại những lời
quý báu sau đây: "Từ một chốn rừng
núi thâm u, Lavang đã trở nên trung tâm cầu nguyện,
một thành trì thu hút muôn người. Vì Lavang là
đất riêng của Đức Mẹ Chúa Trời.
Trong khoảng thời gian hơn một thế
kỷ rưỡi này, Lavang là nơi đã tuôn
tràn bao ơn phúc của Mẹ lành. Ai có thể
kể hết được những ơn lạ
phần hồn phần xác Đức Mẹ đã
ban xuống cho những ai chạy đến cầu
khẩn Mẹ ở nơi này. Sao đếm nổi
những đoàn người nam phụ lão ấu,
không thiếu một thành phần nào trong xã hội
đã lũ lượt tuôn đến Lavang. Họ
đến để tỏ bày nỗi lòng, kêu
xin sốt sáng.... Để rồi ra về lòng
nhẹ nhàng sung sướng đầy tin cậy
mang theo bó lá, vài miếng gạch vụn lượm
quanh đền thờ đem theo để làm
tin.
Mẹ
Maria quyền phép ngự trị trên trời. Mẹ
Maria tuôn tràn muôn ơn xuống khắp nơi và
bất cứ ở đâu ta cũng có thể
kêu xin cùng Mẹ, nhưng có những chỗ Mẹ
muốn chọn làm nơi riêng của Mẹ. Trải
qua thời gian, chúng ta nhận ra Lavang chính là một
trong những nơi riêng ấy, Mẹ nhận
để thi ân.
Lời
truyền tụng của Tổ Tiên, sự khuyến
khích của Giáo Quyền, lòng sùng mộ của
Giáo Hữu Việt Nam qua bao thể kỷ, đủ
chứng tỏ rằng Mẹ nhân lành đã muốn
chọn Lavang này để thông ơn Chúa cách riêng
cho con cái Việt Nam và để làm nơi cho con
cái Mẹ qui tụ lại mà chúc tụng, mến
yêu Người một cách đặc biệt
hơn. Lavang nơi xưa kia Mẹ hiện đến
để yên ủi giao hữu lâm cảnh lầm
than, bị bách hại. Lavang hôm nay Mẹ còn tuôn
đổ tràn phúc lạ an ủi kẻ ưu
phiền, hộ phù người tin cậy.... Hãy
đến Lavang để kính viếng nơi
Thánh Địa Mẹ đã chọn. Hãy đến
Lavang để gặp Mẹ, và nhờ Mẹ
đến với Chúa Giêsu mạch tràn trể
muôn phúc".
13.
NHỮNG ƠN LẠ MẸ LAVANG BAN
1.
CÂY ĐÈN CẦY VỤT TẮT
Cha
Giacôbê Nguyễn Linh Kinh làm cha Sở Lavang (1948-1955)
đã ghi lại phép lạ Mẹ ban cho vua Khải
Định như sau: Nhân dịp lễ tứ
tuần của vua Khải Định, bỗng
dưng ngài ngã bệnh đến độ trầm
trọng. Các ngự y đều bất lực.
Các bác sỹ Pháp cũng bó tay. Lúc ấy có viên quan
xin tâu vua về việc cứu chữa linh thiêng
của Đức Mẹ Lavang và thỉnh cầu
nhà vua tìm tới xin ơn Đấng Thánh Mẫu.
Vua Khải Định liền cho mời cụ
Nguyễn Hữu Bài vào điện và xuống
mạng cho cụ đi Lavang khấn xin cùng Đức
Mẹ. Vâng theo thánh dụ, cụ ra Lavang cầu
xin Đức Mẹ cho nhà vua được bình
phục, để ngày lễ tứ tuần ngài
được vui vẻ và khoẻ mạnh để
tiếp đãi quan khách. Thực thế, Đức
Mẹ đã ban cho vua được bình phục,
vì sau lễ tứ tuần, nhà vua đã cho người
đến Lavang tạ ơn Đức Mẹ.
Năm sau cũng vào dịp này vua bị ngã bệnh
lại. Vua lại sai cụ Bài đi khấn xin
và mang thêm hai cây đèn cầy lớn dâng kính Đức
Mẹ. Tới nơi cụ cho chưng đèn
và thắp nến trước bàn thờ Mẹ.
Nhưng lạ thay, một cây đèn cầy không
chịu cháy, cho dù có sửa tim, cạo nến,
ngọn đèn cũng chỉ cháy lên leo lét một
chút rồi vụt tắt. Cụ bài luận rằng
đó là dấu Đức Mẹ cho biết, Mẹ
chỉ nhận một lần này nữa mà thôi,
lần sau sẽ không được nữa. Đúng
thế, năm sau vua Khải Định lại
ngã bệnh và thăng hà trong chứng bệnh hiểm
nghèo ấy. (N.S.Đức Mẹ Lavang số 2
tháng 7,1962).
2.
CÔ MARIA MỘNG HOA
Ông
bà Nguyễn khắc Nhân và Tôn nữ thị Quyên,
đã sinh được 3 người con trai.
Bà ao ước có thêm một cô Tôn nữ nữa,
nên bà thường khấn rằng: "Nêu Mẹ
Lavang cho con toại nguyện thì con sẽ trở
lại đạo Công Giáo". Lần kia ông lên
Đền Lavang hành hương xin ơn. Khi trở
về bà kể cho ông nghe giấc mộng đẹp
của bà: Một Bà-Đẹp mặc đồ
trắng toát, tay ôm những bông Cúc Thọ kép. Bà
xin một bông, Bà-Đẹp cho ngay một bông.
Bà xin một bông nữa, Bà-Đẹp mỉm cười
rồi biến đi.
Ông
tin đó là điềm tốt, Đức Mẹ
đã nhân lời ông bà cầu xin. Và thực thế,
năm sau (15-8-1913) bà mang thai một người
con nữa. Tới ngày sinh mà bà không cách nào sinh được;
ông Nhân phải chạy lên Đền Đức
Mẹ Lavang cầu khẩn và lấy Nước-Thánh
Đức Mẹ đem về cho bà uống và
thoa trên trán. Sau khi uống nước bà sinh được
liền. Ông bà đặt tên cho con là Nguyễn
thị Phi-Phụng và âu yếm nói với con: "Ba
ước ao sau này con sẽ được huy
hoàng như chim Phụng Hoàng, nhưng khi làm nên
sự nghiệp vẻ vang, thì con sẽ phải
mang tên hiệu là "Mộng Hoa" để
kỷ niệm ơn lạ mà má con đã chiêm mộng".
Năm tháng cứ thế trôi qua, Phi Phụng học
hành ngày một khá. Đến lúc lên 16 tuổi,
cô đã được báo chí ca ngợi về
năng khiếu nghệ thuật của cô. Phi
Phụng nhớ lời cha dạy nên đã nhận
bút hiệu mới là gái "Mộng hoa". Cô
không hãnh diện về mình nhưng luôn có tâm tình
biết ơn đối với Mẹ Lavang. (N.S.
Đức Mẹ Lavang số 9, tháng 5, 1962).
3.
TÉ BỂ SỌ ĐƯỢC MẸ CHỮA LÀNH
Ngày
25 tháng 5 năm 1932, có cha Phượng và cha Mục
sau khi cấm phòng tại Dòng Phước Sơn
về, hai cha đến Lavang kính viếng Đức
Mẹ. Cha Phượng leo lên tháp chuông coi, mới
lên được tầng dưới cao 5 thước,
cha bị xẩy chân té xuống nền Xi-măng,
sọ bể rạn từng miếng, một
đầu gối bị dập, ống chân bị
bẻ quặt lại, máu chảy dầm dìa lai
láng. Cha bị ngất bất tỉnh nhân sự.
Người ta chạy đến nhà thương
Quảng Trị mời bác sĩ Phạm văn
Hy, nhưng rủi thay bác sĩ đi vắng.
Đến 8 giờ tối bỗng nghe có tiếng
xe tiến tới trước cửa nhà xứ.
Cha Morineau Trung ngỡ là người đón bác
sĩ trở về, nhưng không, đó là xe của
bác sĩ Hoslé, Quản Đốc Bệnh Viện
Huế đi săn bắn, tình cờ đi ngang
qua. Ông liền đưa nạn nhân lên xe chở
về nhà thương, rồi đánh điện
mời bác sĩ Hy trở về. Hai bác sĩ lo
săn sóc cho nạn nhân nhưng cả hai đều
nói rằng: "Cha có qua khỏi là nhờ phép
lạ Đức Mẹ làm mà thôi". Quả
thực phép lạ đã xẩy ra trước
sự ngạc nhiên của mọi người.
Chỉ sau 10 ngày cha Phượng đã khỏi
hết mọi vết thương từ đầu
đến tay chân. Bác sĩ tuyên bố: "Đó
là ơn thiêng từ trời ban cho cha. Một phép
lạ Đức Mẹ ban cho Cha, chứ không
có tài nghệ nào chữa lành mau như thế được".
(Phép lạ này đã được tường
thuật trong Tạp Chí Hội Truyền Giáo, xuất
bản tại Balê tháng 4 năm 1932).
4.
BỐN MƯƠI NĂM MỘT GIÒNG LỆ
Ngồi
liên tưởng đến Thánh Lễ Đại
Trào Khai mạc năm Toàn xá, kỷ niệm 200
năm Đức Mẹ hiện ra tại Lavang
và kỷ niệm 10 năm Phong Thánh Tử Đạo
Việt Nam. Tôi hồi tưởng về một
khung trời ấu thơ xa xưa với một
biến cố trọng đại đến
với gia đình tôi cách đây 40 năm về
trước, vào một ngày cũng mưa gió như
hôm nay.
Năm
1958, ba tôi làm việc tại Bệnh viện Trung
Ương thành phố Huế. Mỗi tháng ông
cùng các bác sĩ đi thanh tra các Bệnh viện
nhỏ trong vùng một lần. Hôm ấy ông sửa
soạn đi thăm bệnh viện Quảng
Trị, cách thành phố Huế khoảng 65 cây
số về phía Tây Bắc.
Tôi
còn nhớ rõ hôm đó trời mưa lạnh, mưa
rả rích suốt ngày. Ba tôi chuẩn bị lên
đường. Ba tôi mặc chiếc Jacket bằng
da và dặn dò mẹ tôi một vài điều
gì đó rồi vội vã ra xe.
Bước
xuống mấy bậc thềm, ông gặp ngay
cha Cao văn Luận, người cùng quê quán với
cha tôi. Ngài rất thương yêu gia đình tôi
và niềm mong mỏi của ngài là được
thấy gia đình tôi theo Đạo. Điều
mà đối với cha mẹ tôi là một trở
ngại rất lớn, không thể nào thực
hiện được. Họ hàng cả hai bên
đều không có ai theo Đạo Công Giáo, vả
mẹ tôi đã quy y, pháp danh là Nguyên Kha. Mẹ
tôi cũng đã xây chùa cho làng ngoại tôi ở
Huế. Cả một đời mẹ hy sinh
cho hạnh phúc của chồng con, nhưng trong
vấn đề tín ngường bà rất là
cương quyết, vì thế ba tôi cũng rất
tôn trọng mẹ tôi, mặc dù ông rất mến
cha Luận.
Cha
Luận gặp ba tôi, ngài đưa cho ông một
tấm ảnh và bảo: "Tôi mới đi
kiệu ngoài Lavang về. Đức Mẹ đã
làm nhiều phép lạ và rất linh thiêng, ông hãy
giữ lấy mà cầu nguyện". Ba tôi cười
cười, nói cám ơn cha, rồi thuận tay
ông nhét tấm ảnh vào túi trong của áo Jacket:
"Con phải đi ngay cha ạ, mọi người
đang chờ con ở ngoài kia". Vừa nói
ông vừa chào từ giã rồi đi ra xe.
Buổi
chiều trong khi người làm dọn cơm,
chúng tôi ngồi nghe mẹ kể chuyện. Mẹ
đang kể một đoạn trong câu chuyện
"những kẻ khốn cùng" của văn
hào Victor Hugo, thì chúng tôi nhận được
hung tin. Chiếc xe chở ba tôi và bốn người
nữa bị lật tại cầu Giồng Quảng
Trị chìm xuống sông rồi. Tất cả
đều tử nạn. Bệnh viện báo tin
và yêu cầu gia đình đến ngay để
nhận xác về mai táng.
Trước
biến cố bất ngờ, mẹ tôi như
người bị sét đánh, sững sờ ôm
lấy chị em chúng tôi. Làm sao tôi có thể diễn
tả hết nỗi đau đớn trong lòng
mẹ tôi lúc này... Mẹ tôi và chị em tôi theo
xe bệnh viện ra Quảng Trị lấy xác
cha. Đến nơi, tại trạm gác nhỏ
nằm cuối chân cầu, xác của ba ông bác
sĩ và nhân viên bệnh viện đã được
vớt lên, còn thi hài ba tôi chưa tìm thấy. Người
ta chưa vớt được, nhưng quả
quyết rằng ông cũng cùng một số phận
với những tử thi đang nằm đó,
vì ông ở dưới nước quá lâu. Thân nhân
của các nạn nhân đã có mặt đông đủ,
họ kêu gào khóc lóc rất não lòng. Em tôi còn nhỏ
chưa hiểu lắm, nép trong vòng tay mẹ ngơ
ngác nhìn quanh: "Ba đâu, ba đâu mẹ!".
Mẹ tôi chưa kíp dỗ dành thì bỗng có tiếng
người la lớn: "Đây rồi, vớt
được xác cuối cùng rồi".
Là
ba tôi đó. Mẹ tôi nhào tới. Người
ta khiêng xác ba tôi đặt lên chiếc băng
ca. Lại có tiếng la lên: "Trời ơi,
ông ta hình như chưa chết. Còn thở, hơi
thở yếu lắm. Làm hô hấp cho ông ta ngay
đi".
Và
ba tôi quả còn sống thật. Mẹ tôi qùi xuống
lạy trời lạy đất. Cám ơn Trời-Phật
đã cứu sống ba tôi. Nước mắt
mẹ tôi một lần nữa tuôn trào, nhưng
lần này là giòng nước mặt hạnh phúc
không ngờ. Chúng tôi quỳ xung quang băng ca.
Ba tôi tỉnh lại hẳn. Ông nói bằng một
giọng thật yếu ớt, câu nói đầu
tiên tôi không bao giờ quên được: "Hãy
xin cha rửa tội, rửa tội cho cả
nhà. Đức Mẹ Lavang đã chữa ba".
Nói
xong, ông đưa tay vào túi áo lục lọi kiếm
tìm, ông rút ra một tấm ảnh Đức Mẹ
Lavang, tấm ảnh mà Cha Luận đã cho ông
trước chuyến đi định mệnh.
Ba tôi nói tiếp: "Đây chính Bà này đã cứu
ba. Ba bị mắc kẹt trong gầm xa không sao
ra được. Bà đã đến lôi ba ra.
Ra khỏi cửa xe, Bà đẩy ba nổi lên
mặt nước và nói "Ta là Mẹ Lavang,
Ta đến cứu con".
Tôi
chợt nghĩ lại: Nếu ngày hôm ấy ba
tôi không vội vàng ra đi và có thời giờ
tiếp chuyện cha Luận, thì có lẽ bức
ảnh Đức Mẹ Lavang đã bị bỏ
quên trong ngăn kéo cùng với sự hững hờ
của ba mẹ tôi rồi. Sau biến cố đó,
gia đình tôi gồm ba mẹ và 7 anh chị em
được rửa tội trong sự tự
nguyện rất hoan hỷ của mẹ tôi. Ba
vị Linh mục thân thiết nhất của
gia đình là cha Cao văn Luận, cha Ngô văn
Trọng, cha Vũ minh Nghiễm dạy giáo lý cho
gia đình, đã dâng Thánh Lễ và ban phép Rửa
Tội cho chúng tôi tại Thánh Đường
Đức Mẹ Lavang Quảng Trị. Mẹ
tôi vui mừng hân hoan và tin tưởng, bà lần
chuôi Mân Côi mỗi ngày. Cho đến ngày nhắm
mắt, bà vẫn là một tín đồ sốt
sáng, sùng kính Đức Mẹ tuyệt đối.
Đây là hình ảnh cuối đời của
mẹ tôi.
Tôi
còn nhớ, sau ngày gia đình chịu Phép Rửa
Tội, mẹ tôi đã phải chịu đựng
biết bao lời ra tiếng vào của họ
hàng và những người quen biết.... Mỗi
lần than vãn với Mẹ thì mẹ tôi lại
khuyên: "Ba là cột trụ, là nguồn sống
của gia đình. Đức Mẹ đã cứu
sống ba là cứu sống cả gia đình chúng
ta. Vì thế dù cho phải chịu bao nhiêu thử
thách, khó khăn cũng phải chấp nhận,
để cảm tạ ân sủng đó. Tình yêu
luôn luôn có cái giá phải trả, và cái giá đó
có nghĩa gì đâu với ân huệ mà Đức
Mẹ đã ban cho gia đình chúng ta".
Mẹ
tôi nói đúng, ơn lạ mà Mẹ Lavang đã
ban là một biến cố lớn trong đời
sống tâm linh của gia đình, cùng là một
biến cố trong lịnh sử gia tộc. Ba
tôi năm nay đã gần 90 tuổi. Ông vẫn
còn giữ và kính tấm ảnh năm xưa đã
cứu mạng ông. Tấm ảnh ngày nay đã
mờ nhạt theo thời gian, nhưng mỗi
ngày ông vẫn ngồi bên Mẹ, đọc kinh,
cầu nguyện, truyện vãn với Mẹ một
cách thân tình.
Câu
chuyện này vẫn thường được
tôi kể lại cho các cháu nghe như một chuyện
thần thoại nhưng có thực, chuyện
xẩy đến từ một phép lạ của
Đức Mẹ Lavang đối với gia đình
tôi nói riêng và nhiều gia đình khác nói chung.
Ngày
đại lễ khai mạc Năm Thánh hôm nay
trời mưa nhiều. Tôi lái xe đi trong cơn
mưa như trút, nhưng lòng tôi hạnh phúc vô
cùng vì tôi được có Chúa, có ánh sáng niềm
tin của Ngài chiếu rọi tâm hồn tôi. Tôi
có tình yêu bao la rộng mở của Đức
Mẹ đã đến với gia đình tôi từ
thuở tôi mới lên 10... Ngày nay tôi cũng vẫn
cảm thấy mình may mắn, đã được
hưởng một ân huệ quá đặc biệt
đến từ tình yêu bao la không bờ bến
của Đức Mẹ....
California
ngày 22 tháng 2 năm 1998. Lê tín Hương. (trích
từ Báo Hiệp Nhât số 64, tháng 4, 1998).
5.
TÌNH MẸ BAO LA
...
Gia đình hoàn toàn ngoại giáo, lại nghèo nên
bố tôi phải lên núi kiến trầm về
bán nuôi sống gia đình. Nhưng chẳng may
bố tôi bị một nhánh cây khô nhọn đâm
xuyên bàn chân. Các bạn phải cõng bố tôi về.
Tới nhà thì chân đã mưng mủ, nhức
nhối, suốt ngày chỉ ôm chân kêu đau rên
rỉ. Các cha, các Sơ đến thăm và chữa
trị nhiều lần nhưng cũng không bớt.
Có người nói trong thịt xương bàn chân
còn nhiều miếng gỗ cứng sinh độc
cần phải mổ mới lành. Bố tôi đi
nhà thương soi điện nhưng chẳng
thấy gì, còn bác sỹ thì nói phải cưa chân
đi mới khỏi. Mẹ tôi sợ bố què
cụt không làm được việc nên không
cho. Bố tôi phần thì lo buồn vì sợ chất
độc chạy lên tim đe dọa mạng
sống, phần thì đau đớn không thể
làm gì nuôi sống gia đình.
Ở
rú làng tôi có hòn đá trắng giống hình người
nằm dưới bụi vòi voi xum xuê. Người
ta đồn rằng "Ông Đá" thiêng lắm,
đêm khuya trời tối ông thường ngồi
dậy trò truyện với các hồn ma trong nghĩa
địa. Vì thế dân làng ai đau yếu cũng
nấu nước chè xanh mang đến đây
cầu khẩn rồi đem về uống. Mẹ
tôi còn hơn thế nữa, bà dìu bố tôi ra đây
khóc lóc cầu xin "Ông Đá" thương
tình, nhưng bố tôi chẳng thuyên giảm chút
nào. Tình thế gia đình ngày càng nguy ngập.
Cuối
hè năm ấy, nhân có Đại Hội Thánh Mẫu
Đức Mẹ Lavang, Sơ Camille là cô giáo dạy
tôi học, gợi ý đem bố tôi đi Lavang
nhờ Đức Mẹ cứu giúp. Sơ biết
gia đình tôi ngoại giáo, lại túng thiếu,
nên trình cha xứ cho nhập đoàn với giáo
dân, đi chung chuyến xe đò và ăn ngủ
với họ không phải tốn tiền. Nghe
chuyện ấy mẹ tôi mừng lắm nên xin
cùng đi theo. Lòng bố thì nghi ngờ, nhưng
vì ngộ biến nên phải tòng quyền. (Gia
đình tôi ngoại đạo, nhưng tôi học
trường Công giáo, nên mọi kinh nguyện tôi
xin nhận đọc cả để bố
tôi yên lòng. Bố chỉ cần có lòng thành tâm thôi).
Bố tôi hỏi:
-
Thành tâm là thế nào?
-
Là trong bụng bố đặt hết tin tưởng
vào Đức bà.
Mẹ
tôi vui mừng rưng rưng nước mặt
bảo bố:
-
Ông phải ăn chay mấy ngày và hết lòng cầu
xin Bà Tiên giúp cho, không thì nguy lắm.
Tôi nói:
-
Đức Bà chỉ cần lòng thành thôi, bố
không cần ăn chay.
Gia
đình tôi gia nhập đoàn hành hương trong
bầu không khí đầy niềm tin. Mỗi sáng
mỗi chiều, mẹ dìu bố đến trước
tượng Đức Mẹ bồng con đứng
dưới tàng cây đa cầu xin âm thầm,
vì điều gì có trong trí nghĩ thì Đức
Mẹ cũng đã biết hết rồi.
Buổi
chiều bế mạc, mẹ tôi được
Sơ dẫn lên ngọn đồi phía sau để
múc nước Thánh và hái lá Vằng đem về.
Sơ nói với mẹ tôi:
-
Thím về, cho chú uống nước này, còn lá
Vằng thì giã nhỏ đắp lên vết thương
cho chú, cả nước và lá này đều thiêng
lắm. Không phải bây giờ Đức Bà mới
giúp người ốm đau ngặt nghèo vô phương
chạy chữa đâu, mà cả gần 200 năm
nay rồi. Mẹ đã hiện xuống giữa
vùng núi non hẻo lánh này và nói với những người
bất hạnh như thế. Nhưng thím phải
nói với chú cầu nguyện và thật lòng nương
nhờ Đức Mẹ mới được.
Đúng
là phép lạ, bố tôi dùng nước và lá ở
đồi Lavang một thời gian thì trong người
bố tôi khỏe khoắn, tươi vui hẳn
lên. Chân của bố từ từ líp thịt,
đâm da non rồi lành hẳn. Bà con hàng xóm nghe
tin ai cũng đến mừng. Bố tôi nói:
-
Nếu không có Bà Tiên ngoài xứ Lavang, Quảng
Trị thì tôi cụt chân hay mất mạng rồi.
Sau đó bố tôi đem nước và lá còn lại
cho những người đang đau ốm,
lại nói tôi ở lại nhà đọc kinh cho
họ nữa. Dĩ nhiên là ai cũng được
Đức Mẹ cứu chữa cả.... (Hồi
ký :Vân Hà. Trích trong Báo Hiệp Nhất số 64
tháng 4, 1998).
14.
SỐNG TINH THẦN MẸ LAVANG
Đọc
qua những lược thuật trên chúng ta phải
nhận rằng Mẹ Lavang chính là Mẹ của
tình thương, Mẹ của ơn phù trợ,
Mẹ của niềm tín thác, Mẹ của đức
tin Giáo hội, Mẹ của sự đoàn kết
mọi tôn giáo.
Thực
vậy, Mẹ chính là Mẹ của tình thương,
vì Mẹ thấy con cái chìm sâu trong thảm sầu
khổ ải, trong hiểm nguy của rừng
sâu nước độc, Mẹ đã thương
hiện đến an ủi họ và chỉ cách
chữa trị bệnh tật cho họ.
Mẹ
chính là Mẹ của ơn phù trợ các giáo hữu,
Mẹ đã xuất hiện bên họ giữa
lúc cô đơn cô thế để bênh đỡ,
để che mắt những kẻ lùng bắt
đang chạy trốn vì đức tin.
Mẹ
chính là Mẹ của niềm tin phó thác, khi họ
tụ họp nhau đọc kinh, cầu nguyện
mỗi đêm để tỏ niềm phó thác
của mình trong tay từ mẫu Mẹ. Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã
chọn Mẹ Lavang để "phó thác toàn dân
Việt Nam cho Mẹ, để Mẹ phù trì ngày
nay và mãi mãi".
Mẹ
chính là Mẹ của niềm tin Kitô hữu. Mẹ
đã hiện ra tại Linh Địa Lavang này
để củng cố niềm tin cho biết
bao mạng người đã hy sinh chịu thiêu
rụi cả mạng sống mình vì Chúa. Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ II đã nhắc lại
lời Mẹ như sau: "Các con hãy tin tưởng,
hãy vui lòng chịu đựng đau khổ, Mẹ
đã nhậm lời các con cầu khẩn. Từ
nay về sau, hễ ai đến kêu xin Mẹ
ở nơi đây, họ sẽ được
toại nguyện".
Mẹ
chính là Mẹ của sự đoàn kết mọi
tôn giáo. Chính Mẹ đã chứng kiến tình đoàn
kết giữa người Công giáo và người
không Công giáo trong vùng: Những người Phật
Giáo tại làng Ba Trừ, Cổ Thành và Thạch
Hãn, chung nhau xây chùa tại nơi Đức Mẹ
hiện ra, gọi là "Chùa Làng". Nhưng
sau họ bàn tính và đồng thuận rằng
"Bà Linh" hiện ra thuộc bên Công Giáo, nên
nhường ngôi chùa lại cho bên Công Giáo để
làm Đền thờ kính Chúa Bà. Mẹ chính là Mẹ
của sự hợp nhất tôn giáo tại quê
hương này.
Trong
đoạn kết của bài giảng Thánh Lễ
khai mạc, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn
Như Thể nhắn nhủ:
Trước
ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ
ba, trên bước đường tiến về
Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha mời gọi
toàn thể Giáo Hội: Cá nhân, gia đình cũng
như Cộng Đoàn Giáo Xứ; hãy tạ ơn
Thiên Chúa vì hồng ân Đức Tin, vì Tin Mừng
cứu độ. Hãy sám hối ăn năn về
mọi lỗi lầm và hãy hòa giải với
mọi người. Hãy xây dựng tình yêu thương
hiệp nhất, hãy canh tân đổi mới con
tim và trí óc. Chúng ta hãy hướng về Mẹ
Lavang với những mục đích nêu trên. Thánh
Địa Lavang này đã cho chúng ta một bầu
khí yên lành, thanh thoát, một sự thanh nhàn thư
thản. Mẹ Lavang cũng rất ân cần,
niềm nở đón tiếp hết mọi người
chúng ta. Vậy xin hãy đến với Mẹ,
đến với Mẹ để Mẹ đưa
chúng ta đến tận ngọn nguồn suối
cứu độ là Đức Chúa Giêsu Kitô Chúa
chúng ta.
Anh
chị em thân mến,
Mẹ
Lavang thật rất quê hương, rất dân
dã. Mẹ của cây đa bến cũ. Mẹ
của trầu cau, của ca dao tục ngữ.
Mẹ Lavang hiện xuống trên đám cỏ,
dưới tàn cây đa cổ thụ, để
an ủi đoàn con đang vây quanh đọc kinh
cầu nguyện trong nơm nớp lo sợ. Thật
là hiền dịu, gần gũi, khả ái biết
bao! Mẹ vỗ về đoàn con (như gà mẹ
túc con dưới cánh). Mẹ Lavang như suối
mát trong, như lá cây Vằng và như nước
nguồn đạm bạc, dân dã, nhưng chan
chứa biết bao tình thương. Hãy xác tín rằng
Mẹ luôn gần gũi và đồng hành với
đoàn con trên các nẻo đường cuộc
sống, nhưng lòng vẫn cảm thấy nao-nao
trong giờ phút rời xa quê Mẹ. Xin Mẹ thương
hợp nhất chúng con. Xin Mẹ thương
dệt sáng tương lai và làm tươi mát cuộc
đời chúng con.
Mẹ
là giọt nắng trên cây,
Ươm bao nhiêu ước mơ đầy
mình con.
Mẹ là bóng mát đường quê,
Chở che con giữa bộn bề tháng năm.
Bùi
Tuấn.
(Báo Hiệp Nhất Trang 74 số 65).
Vậy
để thể hiện tinh thần của Mẹ
Lavang, chúng ta hãy sống cách đích thực tinh
thần của Mẹ (Vững lòng cậy trông,
yêu mến, tin tưởng, hy sinh và hợp nhất)
trong những ngày chuẩn bị mừng Năm
Thánh 2000 và chuẩn bị mừng 200 năm Đức
Mẹ hiện ra tỏ tình thương với
dân tộc Việt Nam.
15.
CHÀO MỪNG ĐẠI LỄ (Kỷ Niệm 200
Năm Mẹ Lavang)
Chào
kính Mẹ Nữ Hoàng diễm lệ,
Mừng Quê hương có Mẹ cầu bầu.
Đại đoàn Giáo hữu năm châu,
Lễ kính Đức Mẹ nhiệm mầu Lavang.
Kỷ nguyên tới sang trang sử mới,
Niệm tình thương thế giới thanh bình.
Hai thế kỷ trước hiển linh,
Trăm ngàn giáo hữu an bình nguyện kinh.
Năm nay lễ linh đình cảm tạ,
Đức Cha ban Đại xá trọn năm.
Mẹ thương Giáo Hội Việt Nam,
Hiện đang lâm cảnh khó khăn trăm đường.
Ra nước ngoài vấn vương lưu luyến,
Tại quê người nhớ đến cố
hương.
Lavang Thánh địa thân thương,
Vang danh Đức Mẹ Nữ Vương Hòa
Bình.
Phan xuân Trường.
ĐỨC
MẸ LAVANG
Cơn
bách đạo đời vua Cảnh Thịnh,
Tự trong triều có lịnh ban ra,
Bao nhiêu các Cố, các Cha,
Bắt cho kỳ hết chẳng tha người
nào.
Đoàn
Chiên Chúa gặp bao đau khổ,
Sống bơ vơ không có chủ chăn,
Sớm hôm lần chuỗi siêng năng,
Cầu xin Đức Mẹ đoái thương
sự tình.
Ôi
biết bao cực hình quái ác,
Cắt cổ, bêu đầu, xé xác, phanh thây...
Người ngựa xé, kẻ voi dày,
Người giam ngục tối, kẻ đầy
rừng sâu.
Thánh đường bị tịch thâu, đóng
cửa,
Ảnh tượng thì phóng lửa thiêu tan,
Mặc cho dân Chúa than van,
Mặc cho nước mắt chảy tràn biển
khơi.
Dân
gian chẳng còn nơi lẩn tránh,
Rủ nhau cùng tạm lánh Lavang,
Nơi đây rừng rú xa xăm,
Khấn xin Mẹ Chúa thiên đàng cứu nguy.
Bỗng Đức Mẹ từ bi hiện đến,
Khuyên vững vàng cậy mến Chúa Trời,
Dù cho sóng gió tơi bời,
Các con sẽ được an vui xác hồn.
Còn những ai yếu mòn thể xác,
Bệnh lâu năm chẳng bớt chẳng thuyên,
Lá cây rửa sạch nấu lên,
Nghe lời Mẹ dạy, uống liền tiêu
tan.
Hôm
nay đây đoàn con kính nhớ,
Nhớ năm xưa Mẹ Chúa uy quyền,
Phép lạ Mẹ ban nhãn tiền,
Cứu con thoát khỏi ưu phiền lắng
lo.
Xin Mẹ thương chở che dẫn dắt,
Người Việt Nam tản mát khắp nơi,
Cậy tin, mến Chúa, yêu người,
Đợi ngày xum họp yên vui một nhà.
Dân trong nước thái hòa thịnh vượng,
Đạo Chúa Trời lan rộng Bắc Nam,
Từ Cà Mâu đến Nam Quan,
Vinh danh Thiên CHúa bình an muôn đời.
Hương Ly Băng 98.
16.
ĐẠI HỘI LA VANG LẦN THỨ 25
Đại
Hội La Vang lần thứ 25, kỷ niệm
200 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lavang
chính thức bắt đầu vào lúc 3 giờ
30 chiều ngày thứ Năm (13.8.1998) với việc
đón tiếp Đức Tổng Giám Mục Huế
và các Đức Giám Mục đến khai mạc
Tuần Tam Nhật Đại Lễ.
Các
Đức Giám Mục xuống xe và tiến vào
Công Trường Mân Côi, dẫn đầu là Đức
Tổng Giám Mục Stephanô Nguyễn như Thể.
Trong đoàn Giám Mục có các vị: Hai Đức
Giám Mục chánh và phó Giáo Phận Phát Diệm, Đức
Giám Mục Giáo Phận Phan Thiết Nicola Huỳnh
văn Nghi, Hai Đức Giám Mục Chánh và Phó
Giáo Phận Nha Trang, Đức Giám Mục Giáo
Phận Bắc Ninh, Đức Giám Mục Giáo
Phận Kontum, Đức Giám Mục Giáo Phận
Thái Bình. Các Ngài được mời hôn đất
Thánh Địa, chấm Nước Thánh làm Dấu
Thánh Giá và đoàn rước tiến vào Công Trường,
lên Lễ Đài giữa hai hàng rào danh dự gồm
các em Thiếu Nhi, các cô thiếu nữ cầm
hoa và các chú lính khố đỏ, đội nón,
chân quấn xà cạp, tay cầm lọng che.
Tại
Lễ Đài, Đức Giám Mục Phó Ban mê Thuật
công bố Sứ Điệp của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô nhân dịp kỷ niệm 200
năm Đức Mẹ hiện ra tại Lavang.
Tiếp theo Đức Tổng Giám Mục Nguyễn
Như Thể công bố khai mạc Tuần Tam
Nhật Đại Lễ kỷ niệm 200 năm
Đức mẹ hiện ra tại đây trong
tiếng vỗ tay của khoảng 100.000 người
tham dự, trong tiếng chuông đổ hồi
rền vang, trong tiếng hát của Ca Đoàn Nhà
Thờ Chính Toàn Phủ Cam (Huế) hợp xướng
bài "Như Sóng Lộc Triều Nguyên", lời
thơ của Thi sĩ Hàm Mạc Tử và Nhạc
của Hải Linh. Giây phút gây cản động
tiếp theo là lúc 25 Huy Hiệu, 25 cờ Ngũ
sắc biểu trưng cho 25 Giáo phận trên toàn
lãnh thổ Viêt Nam, một mặt thêu hình nhà thờ
Chính tòa và tên mỗi Giáo Phận, mặt kia thêu
hàng chữ 200 năm Đức Mẹ Lavang. Sau
đó là điệu vũ của 200 em nhỏ
trên nền nhạc một ca khúc Về Bên Mẹ
Lavang.
Ngày
khai mạc của tuần Tam Nhật được
kết thúc bằng Thánh lễ Đại trào do
Đức Giám Mục Nguyễn văn Hòa, Giám
Mục Giáo Phận Nha Trang và là Đệ Nhị
Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam chủ tế, cùng Đồng Tế
có các Đức Giám Mục và khoảng trên 350
Linh Mục. Đức Giám Mục Nguyễn Văn
Nhơn, Giám Mục Giáo Phận Đà Lạt giảng
thuyết. Giáo dân đứng kín bốn phía lễ
đài trang nghiêm dự lễ.
Sau
Thánh lễ là cuộc cung nghinh Thánh Thể do Đức
Cha Huỳnh văn Nghi, Giám Mục Giáo Phận
Phan Thiết chủ sự. Ngài đứng trên
xe hoa hai tầng, cầm hào quang có Mình Thánh Chúa
ngự. Đoàn kiệu tiến trên lộ trình
từ Tháp Cổ ra đường nhựa trước
nhà Trung Tâm rồi tiến vào Công Trường
Mân Côi, Ngài tiến lên Lễ Đài đặt
Mình Thánh Chúa. Cuộc tôn kính Thánh Thể bắt
đầu bằngviệc Chủ Tế dâng hương,
tiếp theo là tiến vũ hoa đăng trước
Thánh Thể Chúa. Khắp Công Trường sáng rực
ánh đèn cầy lung linh sốt mến. Đức
Giám Mục Nguyễn văn Nhơn quảng diễn
phút suy niệm Thánh thể trước khi hát chầu
Thánh thể và Phép Lành Thánh Thể kết thúc.
Ngày
Thứ Hai của tuần Tam Nhật Đại
Hội tức ngày 14.8.1998, chuông nhật một
đổ hồi từ lúc 5 giờ sáng đánh
thức khách hành hương đi tham gia giờ
lần hạt chung tại Linh Đài sau một
đêm chập chờn giấc ngủ giữa
bầu trời đầy sao.
8
giờ sáng là Thánh lễ do Đức Tổng
Giám Mục Giáo Phận Sàigòn Phạm Minh Mẫn
chủ tế với trên 10 Giám Mục và 200 Linh
Mục Đồng tế. Trong bài giảng, ngài
nhắc lại những thương đau của
các cuộc tàn sát người Công Giáo thời xưa
đã phải chịu trải qua bao thế hệ.
Ngài cũng nêu lên những thách đố mà người
trẻ Công Giáo ngày nay phải đương đầu
giữa cuộc sống. Ngài nhắn nhủ họ
phải bám vào Đức mẹ để có thể
sống một cuộc sống thánh thiện hơn.
Cũng
vào lúc 8 giờ, tại Linh Đài, một buổi
sám hối Cộng Đoàn dành cho người lớn.
Kết húc buổi sám hối bằng một điệu
vũ dâng hoa kính Đức Mẹ trước
khi sang phần Lần Hạt Mân Côi và đọc
kinh Truyền Tin ban trưa.
Lúc
1 giờ chiều, loa phóng thanh kêu gọi các bạn
trẻ tham dự giờ sám hối dành cho giới
trẻ. Giữa ánh nắng nồng nực ấy,
cả chục ngàn các bạn trẻ đội
mũ, nón, ô, dù vui vẻ ra sắp hàng trước
Công Trường Mân Côi, hành hương tượng
trưng về Lễ Đài vây quanh vị Linh
Mục trẻ giúp họ suy niệm Lời Chúa.
Nguyên cử chỉ ngồi giữa nắng Quảng
Trị cũng đã là một hành động
sám hối rồi và chắc chắn được
Chúa thương nhiều.
Sau
giờ sám hối thì trời bắt đầu
vân vũ, mây đen kéo đến phủ kín bầu
trời. Ban Tổ chức vẫn mời gọi
mọi người tiến ra Công Trường
tập họp chào đón Đức Hồng Y
Phạm Đình Tụng, Tổng Giám Mục Giáo
Phận Hà Nội, kiêm Chủ Tịch Hội Đồng
Giám MụcViệt Nam, ngài đến với tư
cách là Đại Sứ của Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô Đệ II.
Vào
lúc 3 giờ 30 chiều, mây tan dần và đến
4 giờ toàn dân vui mừng đón Đức Hồng
Y và các Giám Mục cách trọng thể dưới
ánh nắng dịu hiền êm đẹp.. Đức
Hồng Y quì xuống hôn đất thánh và tiến
bước giữa hai hàng lọng uy nghi, trong
tiếng nhạc và kèn trống tưng bừng.
Khi vị Đại Sứ đã an vị trên
lễ đài, Linh Mục Tổng đại diện
Tổng Giáo Phận Huế đọc văn thư
của Đức Thánh Cha ủy nhiệm Đức
Hồng Y làm Đặc sứ của ngài tại
Đại Hội Đức Mẹ Lavang 1998.
Sau lời chào mừng của Đức Tổng
Giám Mục Huế, Đức Hồng Y nhận
huy hiệu Đại Lễ 200 năm Đức
Mẹ Lavang do Đức Tổng Giám Mục Huế
trao tặng. Trong bài diễn từ, Đức
Hồng Y nói: "Đây là một vinh dự đặc
biệt Đức Giáo Hoàng đã ban cho tôi, nhưng
tôi nghĩ vinh dự này không phải chỉ vì
tôi, mà vì sự kính trọng của ngài đối
với dân tộc Việt Nam, một dân tộc
mà ngài nói thật dễ mến yêu". Sau bài huấn
từ Đức Hồng Y tiến về Linh
Đài dâng hương kính Đức Mẹ. Trong
dịp này, Đức Tổng Giám MụcTephanô
Nguyễn như Thể cũng đã giới thiệu
pho tượng Đức Mẹ theo kiểu mẫu
Việt Nam cao 2 mét, đã được Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam chính thức
công nhận để thay thế cho tượng
cũ, và một chén thánh đặc biệt do
Đức Thánh Cha từ Roma gửi tặng Đại
Hội để dâng Thánh Lễ kỷ niệm
200 năm Đức Mẹ Lavang hiện ra.
Thánh
Lễ chiều ngày 14.8.1998 được bắt
đầu vào lúc 6 giờ, do Đức Tổng
Giám Mục Nguyễn như Thể chủ tế,
cùng với 14 Giám Mục và khoảng 350 Linh mục
đồng tế. Trước khi Thánh lễ
bắt đầu, Đức Hồng Y đặc
sứ trao dây Palliumcho Đức Tổng Giám Mục,
như dấu hiệu hiệp thông quyền quản
trị Tổng Giáo Phận Huế. Sau khi nhận
dây Pallium, Đức Tổng Giám Mục long trọng
đọc lời tuyên thệ và Thánh lễ được
bắt đầu.
Đêm 14.8.1998 là đêm canh thức còn gọi là
đêm "diễn nguyện" do gần 100
em Đệ Tử Dòng Thánh Phaolô phụ trách gồm
3 màn: Dâng hoa, diễn lại sự tích Đức
mẹ hiện ra tại Lavang và suy ngắm 5 sự
mừng.
Ngày
thứ ba của tuần Tam Nhật đại
lễ (15.8.1998): Là ngày cao điểm nhất của
tuần Tam Nhật Đại Lễ. Suốt
đêm nhiều người canh thức bên nhà
chẩu. Nhiều nhóm khác đọc kinh, lần
hát, ca hát kính Đức Mẹ cho tới sáng. Chuông
báo thức lúc 5 giờ sáng và loa phóng thanh kêu gọi
khách hành hương tham gia cuộc cung nghinh Đức
Mẹ Lavang. Cuộc cung nghinh được bắt
đầu từ 5 giờ 30 sáng để tránh
cái nắng gay gắt sắp tới. Cuộc rước
kiệu đặt dưới quyền chủ
toạ của Đức Hồng y Đặc
Sứ với 14 Giám mục, 350 Linh mục và 200.000
giáo dân đi theo kiệu sơn son thiếp vàng,
chạm trổ công phu do Giáo dân Phát diệm dâng
cúng. Cuộc rước tiến hành trong trang nghiêm,
sốt sáng, trật tự đến độ
hoàn hảo và kết thúc vào lúc 7 giờ bằng
một bài thánh vũ của ba giòng sông tượng
trưng cho ba miền con dân đất Việt
trên nền nhlac "Như sóng lộc triều
nguyên".
Tiếp
đến là Thánh lễ bế mạc vào lúc 9
giờ sáng, đủ thời gian cho khách hành hương
từ các tỉnh lân cận đổ về,
đủ để Ban tổ chức tiếp
đón các phái đoàn tới dự. Trời nắng
đã lên cao khiến giáo dân tham dự phải
hy sinh nhiều trong lúc hiệp thông dâng lễ.
Bài đọc 2 được đọc bằng
tiếng thổ âm Tây Nguyên từ Giáo Phận Kontum
trở về. Phái đòng Tây Nguyên đã dâng lên
Đức Mẹ và thông hiệp với Cộng
Đoàn dân Chúa những tiếng cồng, tiếng
chiêng mê hồn, những trang phục lạ mắt,
những lời ca tiếng hát, điệu vũ...
suốt thời gian đại lễ. Thánh Lễ
bế mạc chấm dứt vào lúc 11 giờ ngày
15 tháng 8, 1998. Đức Giám Mục Nguyễn Sơn
Lâm, Giám Mục Giáo phận Thanh Hóa thay mặt cộng
đoàn hành hương cám ơn các giới. Ngài
đã ưng khẩu phát biểu đôi lời
cảm tưởng thật chân thành, chính xác: Đại
Hội Thánh Mẫu năm nay thành công rực rỡ
là nhờ mọi cánh tay con cái Mẹ cộng tác.
Nhờ sự nỗ lực làm việc của
Giáo Phận Huế. Quí vị có thể đem
tinh thần Đại Hội về giáo phận
mình, đem đức tin, chấp nhận mọi
gian khổ trong hiền hòa và chịu đựng
để sám hối, chuẩn bị tiến về
năm 2000, mừng thiên kỷ cứu độ.
17.
NGƯỜI CHỨNG ĐÁNG TIN
(Trích
bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục
Nguyễn Như Thể của thinh giả đài
Phát Thanh Đức Mẹ Hằng Cửu Giúp tối
ngày 18.8.1998.)
Xin
Đức Cha sơ lược ngắn gọn
cho chúng con biết về Đại Hội mừng
kỷ niệm 200 Đức Mẹ hiện ra
tại Lavang? Các sinh hoạt? có bao nhiêu người
đến dự? có gặp phải trở những
khó khắn gì, cùng những điều tích cực
khác thấy được trong Đại Hội.
ĐTGM:
Tam nhật đại lễ kỷ niệm 200
năm Đức mẹ hiện ra tại Lavang
là một biến cố quan trọng hàng đầu
đối với Giáo Hội Công Giáo VN, đối
với mọi tín hữu VN trong và ngoài nước.
Điều này Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
nhiều lần nhắc đến biến cố
này và phó thác giáo dân Việt Nam cho Đức mẹ
Lavang. Hội Đồng Giám Mục VN cũng
đã ủy thác việc tổ chức này cho Tổng
Giáo Phận Huế bởi vì trong hoàn cảnh hiện
tại chưa cho phép có một tổ chức
qui mô toàn quốc. Nên chúng tôi tùy khả năng
và hoàn cảnh, cố gắng làm hết sức
mình để chuẩn bị cho Tam Nhật Đại
Lễ từ ngày 13-15..8.1998 vừa qua. Về mặt
tinh thần là chính, về mặt vật chất
tùy theo khả năng hiện có. Trong việc tổ
chức chúng tôi đã đề ra phương
hướng là cách tranh trí cũng như nghi lễ
phụng vụ vừa phải có tính cách toàn quốc
mà vừa có tính cách dân tộc.
Trong
3 ngày đại hội có 16 Giám mục đến
hành hương tại Lavang, kể cả Đức
Hồng Y Phạm Đình Tụng. Con số Linh
mục vào khoảng 300 và số giáo dân ước
lượng chừng 200.000 người.
Chương
trình chung thì ngày 13.8 có nghi thức khai mạc do
Đức Tổng Giám Mục Huế chủ sự.
Tiếp theo có thánh lễ khai mạc do Đức
Cha Nguyễn văn Hòa Giám mục Nha trang chủ
tế. Tối có rước kiệu Mình Thánh Chúa
rất sốt sáng do Đức cha Huỳnh văn
Nghi Giám Mục Phan Thiết chủ sự.
Qua
ngày 14.8.1998 buổi sáng có Thánh Lễ do Đức
Cha Phạm Minh Mẫn Tổng Giám Mục Saìgòn
chủ tế. Chiều có thánh lễ do Đức
Cha Nguyễn như Thể chủ tế. Trong
ngày 14.8 có cuộc sám hối cộng đồng
cho người lớn cũng như giới trẻ.
Qua
ngày 15.8. 1998, sáng có rước kiệu và theo sau
là Thánh lễ bế mạc do Đức Hồng
Y Phạm Đình Tụng, Tổng Giám Mục Hà
Nội, Chủ Tịch Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam và là Đặc sứ của
Đức Thánh Cha, chủ tế.
Những
khó khăn thì cũng còn nhiều như trước
mắt thì các quán ăn uống chính quyền xã
làm gần khuôn viên La vang quá nên mất vẻ trang
nghiêm phần nào, rồi thì khó giữ trật
tự và vệ sinh. Về vấn đề này
thì chính quyền tỉnh Quảng Trị đã
có ý kiến là dời các lều quán ra xa 100 mét
nhưng mà phép vua thua lệ làng, xã đã cho đấu
thầu lỡ rồi nên phải chịu vậy.
Vấn đề thứ hai là đã xin làm một
số nhà vệ sinh thì xã cho phép quá trễ, chỉ
3, 4 ngày trước đại hội, nên không
đạt được như ý, thì cũng
xin làm các phòng dã chiến, sau đại lễ
thì rỡ đi nên chuẩn bị cũng không
kịp.
Ngoài
ra năm nay miền Trung hạn hán rất nặng,
mùa màng bị mất, nhiều nhất là ở
tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình. Dân chúng
rất là cực khổ. Nhưng vấn đề
nước tại Lavang thì bảo đảm
tuy không dư dật lắm nhờ đào được
mấy cái giếng khoan 60-70 mét nên cũng cung cấp
đủ nước cho khách hành hương trong
mấy ngày đại hội.
Nhìn
chung, điểm tích cực trong Đại hội
thấy nhiều hơn, tức là thấy biểu
lộ tình hiệp thông Giáo Hội rất là rộng
lớn và đạm đà. Mọi người
khắp đất nước đều về
qui tụ như một đại gia đình và
có rất nhiều người sám hối, ăn
năn, đổi đời. Mọi người
đến Lavang chỉ biết cầu nguyện,
tìm điều cốt yếu cho cuộc sống
mình, vì Lavang này nghèo lắm, thiếu thốn nhiều
mặt cho nên người ta đến đay
không tìm gì khác ngoài sự cầu nguyện và sống
các mối Phúc thật.
Xin
Đức Cha cho biết bầu khí đại
hội ra sao? Tinh thần dân Chúa thế nào? Các
Đức Giám Mục có cảm tưởng gì
về Đại Hội? Xin Đức Cha cho
chúng con biết cảm tưởng riêng của
Đức Cha về đại hội này.
Bầu
khí Đại Hội rất là sốt sáng và có
mức độ thánh thiện rất cao, vừa
trang nghiêm, có kỷ luật vừa rất là thánh
thiện. Tinh thần của dân Chúa rất là an
ủi, nâng đỡ, phấn chấn và ai ai cũng
hân hoan vui mừng. Dù hoàn cảnh còn thiếu thốn
nhưng không ai phiền trách gì. Về nhà Mẹ
thì thấy được chan chứa tình con cái
đối với Mẹ, tình huynh đệ anh
chị em xum vầy với nhau xung quanh Mẹ
hiền. Giáo dân chịu hy sinh, chịu khó, bác ái
giúp đỡ lẫn nhau. Dù Lavang còn nghèo khó thiếu
thốn nhưng ai ai cũng thỏa lòng cả.
Các
Đức Giám Mục rất lấy làm hài lòng
vì thấy trong hoàn cảnh này mà được
như vậy thì thật là nhờ ơn Chúa và
ơn Đức Mẹ phù trợ. Các Giám mục
rất là cảm phục và cảm động
trước niềm tin vững mạnh của
các thành phần dân Chúa, nhất là các giáo dân. Họ
rất sốt sáng, chịu khổ, chịu cực,
đến được với Mẹ là họ
thỏa lòng rồi. Riêng tôi, rất là vui mừng
tạ ơn Chúa và Đức Mẹ La vang bởi
vì Đại Hội này thành công ngoài ước
muốn của mình, nhờ bao lời cầu nguyện,
hy sinh của các tín hữu xa gần trong nước
cũng như ngoài nước, có mặt cũng
như vắng mặt. Ai ai cũng nao nức,
ai ai cũng hướng lòng về với Đức
Mẹ La vang. Nhờ đó, Đức Mẹ ban
rất nhiều ơn cho Tam Nhật Đại
Hội. Thành công về mặt tổ chức thì
không dám nói nhiều. Lúc này thì có nhiều khó khăn
nhưng mà dần dần người ta cũng
cảm thông và cuối cùng thì cũng tốt đẹp.
Nhưng chính yếu là thành công về mặt tinh
thần. Nhiều người được
ơn ăn năn trở lại. Ai ai cũng
sốt sáng cầu nguyện vì thấy Mẹ Lavang
là người Mẹ qui tụ con cái Việt Nam
khắp nơi, một ý một lòng, một niềm
tin yêu phó thác. Ai đến Lavang cũng thấy
vui mừng và được an ủi trong tâm hồn.
Điều
gì đáng động Đức Cha qua những
ngày đại hội. Xin Đức Cha chia sẻ
cảm nghiệm sống đức tin với
mọi thính giả của đài Đức mẹ
Hằng Cứu Giúp chúng con.
Điều
đánh động tôi nhất trong 3 ngày đại
hội thứ nhất là chúng tôi có Nhà Nguyện
dã chiến đặt Mình Thánh Chúa liên tục và
liên lỉ có các tu sĩ nam nữ ứng trực
để tôn thờ Thánh Thể cả đêm
lẫn ngày. Nhiều giáo dân cũng tham dự rất
sốt sáng và cảm động. Nơi thứ
hai cũng đánh động tôi là khu vực hòa
giải. Có mấy chục tòa giải tội thì
các linh mục thay phiên nhau đêm ngày giải tội
cho các tín hữu đủ mọi lứa tuổi.
Một điều nữa tôi thấy là tại
Linh Đài Đức mẹ luôn có người
cầu nguyện, cá nhân cũng như nhóm. Rồi
có cả nhóm gia đình bạn bè đọc kinh
lần hạt ngay tại lều tá túc của
mình ngoài trời.
Điều
nữa đánh động tôi là thấy giới
trẻ đi rất đông, chiếm đa số
trong các khách hành hương. Họ đến
Lavang là vì niềm tin thúc đẩy chứ Lavang
nghèo khó có gì hấp dẫn bên ngoài đâu. Bên cạnh
họ một số cụ già trên 80 tuổi, chân
bước không vững mà cũng nài nỉ con
cháu cho đi một lần rồi về chết
cũng thỏa lòng. Tôi cũng gặp một bà
mẹ ôm đứa con 5 tháng từ vũng tầu
đến Lavang từ ngày 11 đến ngày 16.
Thấy đứa con vẫn nhở nhơ vui
vẻ thì thật là kỳ diệu. Cũng có người
bồng con mới ba tháng nữa. Tất cả
chỉ vì niềm tin sâu xa nơi chính tâm hồn
họ. Để đúc kết, tôi nhìn vào Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, một vị Giáo Hoàng rất
là ưu ái đối với Đức mẹ
Lavang. Trong dịp kỷ niêm 200 năm Mẹ Lavang,
ngài đã chi mở năm toàn xá từ đầu
năm 1.1.98 đến 15.8.99. Ngài lại tặng
một chén thánh có khắc huy hiệu của ngài
cho Đại Hội. Ngài còn cử vị Đặc
sứ là chính Đức Hồng Y Phạm Đìng
Tụng đến chủ lễ kỷ niệm
200 năm. Ngài gửi sứ điệp cho tín
hữu Việt Nam trong cũng như ngoài nước.
Trong sứ điệp tôi thấy đoạn
quan trọng này "Ước gì Mẹ Lavang lôi
cuốn các tín hữu trở thành những người
hành hương kiên vững trong niềm tin, thành
người hành hương của niềm hy
vọng, thành người hành hương của
tình bác ái, hiệp nhất, yêu thương và phục
vụ".
Cho
nên đối với tôi điều quan trọng
nhất là Đức Tin, Đức Cậy, và
Đức Mến được biểu lộ
một cách cá nhân và cách cộng đồng Lavang.
Tin, Cậy, Mến được củng cố,
được tăng cường và lan rộng
ra ngoài khu vực Lavang, lan tỏa trong môi trường
sống của mỗi người, mỗi cộng
đoàn. Sau đại hội mỗi người
đưa Mẹ Lavang về nhà mình cũng như
thánh Gioan đưa tinh thần Mẹ vào cuộc
sống thường nhật, tức là cậy
tin mến nơi Mẹ và nhiệt thành tỏa
hương đức cậy, tin mến như
Mẹ vậy. Đây là những điều tôi
tâm đắt và cầu mong cho những người
hành hương về tiếp tục sống
Đức Tin, Cậy, Mến như Mẹ. (Báo
Hiệp Nhất số 146 tháng 9, 1998).
|