XVI.
ĐỨC MẸ KHÓC
TẠI NƯỚC ĐẠI HÀN
1.
Linh Địa Naju, nơi xảy ra phép lạ Đức Mẹ khóc.
Naju
là một thị trấn nhỏ với khoảng 90 ngàn dân thuộc miền Tây Nam
bán đảo Triều Tiên (Korea - Đại Hàn), cách Thử đô Seoul (Hán Thành)
chừng 320 Kilô mét về phía nam. Naju thuộc Giáo phận Kwangju.
Triều
Tiên có lịch sử lâu dài với hơn 5 ngàn năm lịch sử, chịu ảnh hưởng
truyền thống Phật Giáo và Khổng Giáo.
Triều
Tiên đón nhận ánh sáng Đức tin Công giáo từ đầu thế kỷ 18 và phát
triển mạnh vào cuối thế kỷ 19, khiến sinh ra cuộc bách hại Kitô
Giáo với trên 10 ngàn Kitô hữu đã hy sinh mạng sống để minh chứng
Đức tin. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong 89 vị lên
bậc hiển thánh vào năm 1984. Triều tiên cũng đã bị chia đôi đất
nước vào năm 1950. Ngày nay số tín hữu Công giáo lên tới trên
3 triệu trong số 43 triệu dân trên đất Nam Hàn.
2.
Hiện tượng Đức Mẹ chảy nước mắt:
Thánh
tượng Đức Mẹ ban ơn lành chảy huyết lệ liên tiếp tại thành phố
Naju, miền Nam Triều Tiên từ ngày 30 tháng 6 năm 1985, đã gây
chấn động cho cả nước.
Thánh
tượng này là sở hữu của gia đình ông bà Julia Kim (Tên bà là Hong
Sun Yoon và tên ông là Man Box Julio Kim), một gia đình Công giáo
công chức trong thành phố. Bà Julia chính là người được Đức Mẹ
hiện ra để mời gọi mọi người cầu nguyện cho có sự an bình trên
thế giới.
3.
Sự công khai hóa của Giáo Quyền địa phương:
Đức
Tổng Giám Mục Gong Hee Victorius Yoon đã để tâm nghiên cứu và
nghiệm xét những sự lạ xảy ra tại đây và đã công bố với các cha
trong ngày tĩnh tâm của các Linh mục Giáo phận rằng: "Sự
kiện Đức Mẹ khóc chảy nước mắt không thể chối được. Chúng tôi
thường xuyên quan sát các sự kiện và diễn tiến của biến cố....
Và tôi cũng đang tiếp tục nghiên cứu các hậu quả...." (tháng
7 năm 1989).
Ngài
cũng nói với cha Raymond Spies Chánh sở Xứ đạo Naju rằng: "Tôi
hết sức tin tưởng vào hiện tượng Đức Mẹ chảy nước mắt tại Naju
này. Tôi chấp nhận như là một sự có thật. Tôi chưa thấy nơi bà
Julia nói điều gì trái với Tín lý của Giáo hội. Xin cha cho tôi
biết rõ tình hình bằng cách cung cấp cho tôi cả những thông điệp,
nhật ký của bà Julia, các hình ảnh và băng hình nữa".
Đức
Tổng Giám Mục Ivan Dias, Khâm Sứ Toà Thánh tại Nam Triều Tiên
cũng công khai bày tỏ: "Tôi xin phó dâng sứ mạng Khâm Sai
của tôi qua lời cầu nguyện của cha Raymond Spies, bà Julia và
cũng cậy nhờ vào những sự đau khổ bí nhiệm của bà chịu nữa"
(Ngày 22 tháng 12, 1991).
4.
Lược chuyện về bà Julia và pho tượng Đức Mẹ khóc.
Julia
sinh năm 1947 là ái nữ của một vị học giả cổ điển Trung hoa. Cụ
thân sinh của Julia đã bị mất tích trong thời Nam bắc phân tranh
1950 và cô em út cũng qua đời khi mới lên 2 tuổi. Julia sống với
mẹ, một người mẹ can đảm và chuyên cần lam lũ nuôi con ăn học
qua hết bậc trung học. Đến năm 25 tuổi (1972) cô kết hôn với Juliô,
người con cả trong gia đình. Ông bà sinh được 4 cháu (Tên là Rosa,
Tomas, Térèsa và Philip). Ông bà đã lãnh nhận được ơn đức tin
và đã trở thành con Giáo Hội vào lễ Phục sinh 1981.
Sau
lần trở lại, bà dành hết thì giờ vào việc phục vụ khách hàng (nơi
cửa tiệm hớt tóc của bà), lo cơm nước cho chồng con và săn sóc
gia đình.
Ông
Lubino Park là khách hàng quen thuộc của bà. Ông bị chứng bệnh
sưng phổi từ khi ông phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện Lao
trị. Ông xin bà Julia cầu nguyện cho trước khi khám nghiệm giải
phẫu. Vốn có tinh thần tông đồ, nên bà đã dâng một tuần bảy ngày
với các việc hy sinh và kinh nguyện để cầu cho ông. Kết quả sau
ba lần tái khám, bác sỹ cho hay ông đã khỏi bệnh cách lạ lùng.
Để trả ơn bà Julia, ông xin tặng bà một món quà tôn giáo bày bán
trong tiệm ảnh tượng của nhà thờ. Bà Julia chọn bức tượng Đức
Mẹ ban ơn lành làm kỷ vật và cũng là để nhớ ơn Mẹ đã nhậm lời
bà cầu nguyện.
Sau
khi sinh cháu thứ tư, bà mắc một chứng bệnh thập tử nhất sinh.
Trước cảnh tượng đau đớn năm chờ chết, bà đã nhiều lần ý "chấp
nhận cái chết" với chồng con. Bà cũng cố gượng viết một chúc
thư dành cho người sẽ làm vợ kế của chồng bà. Bà cũng được cha
Sở xứ đạo Naju thường xuyên đến cho bà lãnh nhận Mình Thánh Chúa
và khuyên nhủ ủi an trong khi chờ chết. Hôm ấy trong giấc ngủ
mơ, bà thấy mình được Chúa chỉ dẫn đọc Thánh Kinh. Bà mở nhằm
đoạn sách nói về người đàn bà loạn huyết lâu năm được Chúa chữa
lành nhờ lòng tin. Sau giấc chiêm bao ấy, cũng nhờ lòng tin, bà
được Chúa cho hoàn toàn bình phục, lại ban cho hết những gì bà
khẩn cầu. Vì thế, nghĩ đến ơn Chúa ban, bà quyết định biến nhà
mình thành nơi cư trú cho mọi kẻ nghèo hèn. Từ tháng 5, 1985 cơn
bệnh của bà lại tái phát, nhưng Chúa vẫn cho bà đủ sức để làm
việc phục vụ.
5.
Lần đầu tiên Đức Mẹ khóc.
Bà
Julia viết: "Sau khi đi thăm Kwangju, tôi đến Naju lúc 11g20
khuya ngày 30 tháng 6, 1985. Tôi đọc kinh Mân côi xin cho kẻ có
tội được ơn trở lại và cho những người đang đau khổ tại Kwangju.
Đang khi đọc kinh, tôi ngạc nhiên thấy nước mắt chảy dài trên
đôi mắt tượng Me. Tôi hồ nghi không phải là nước mắt Mẹ nên tôi
đánh thức chồng tôi đang ngủ gục, để nhìn cho rõ. Hai chúng tôi
nhìn sát mắt Mẹ và chúng tôi xác định là nước mắt thật sự đã chảy
ra từ khoé mắt Mẹ.
Sáng
hôm sau tôi thức dậy từ 6 giờ và đi thẳng đến chân tượng Mẹ để
quan sát lại. Tôi thấy những giọt nước Phép tôi vẩy lên tượng
khi đêm đã khô sạch, nhưng vệt nước chảy từ khoé mắt Mẹ hôm qua,
giờ vẫn còn chảy đều. Trước khi rời nhà đi làm, Juliô bảo tôi
"đừng tiết lộ cho ai biết về hiện tượng lạ này" Anh
lại bảo tôi "phải cầu nguyện sốt sáng hơn" nữa.
Suy
đến lời Chúa nói trong Phúc Âm: "Sự gì kín đáo đến đâu rồi
cũng bị phơi bày trên mái nhà". Vì thế, chẳng bao lâu sự
kiện Đức mẹ khóc tại Naju được loan đi khắp nơi và thiên hạ kéo
đến đông nghẹt cả đường phố. Gia đình ông bà Juliô đã trở thành
nơi cầu nguyện suốt đêm ngày. Sinh hoạt gia đình hoàn toàn bị
xáo trộn, nhưng ông bà và các con đều chấp nhận cách vui vẻ. Nước
mắt Đức mẹ lần đầu tiên này chảy liên tiếp suốt ba tháng trời.
6.
Bà Julia được đón nhận thông điệp :
Từ
ngày 18 tháng 7 năm 1985, bà Julia bắt đầu đón nhận những thông
điệp của Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Các thông điệp này là những phương
thế linh đạo một số dành bà để giúp bà thăng tiến trên đường thánh
thiện và một số dành cho những người bà có bổn phận phải loan
truyền sứ điệp của trời cao cho thế giới.
Đức
Mẹ đã tỏ cho biết về con đường thiêng liêng theo thánh Teresa
thành Lisieur: Cầu nguyện, sinh hoạt chung, chịu đựng hy sinh,
làm việc đền tội dâng lên Thiên Chúa vì yêu mến và sống khiêm
nhường hiệp ý với Mẹ thì rất có giá trị trong việc cứu rỗi các
linh hồn.
NHỮNG
THÔNG ĐIỆP
Đức
Mẹ dạy mà bà Julia được đón nhận
Đức
Mẹ đã dùng bà như sứ ngôn nói lên những điều Mẹ muốn loan báo
cho các con của Me. Sau đây là một vài điều quan trọng được ghi
lại:
1.
CẦU NGUYỆN ĐỂ NGĂN CHẶN
TỘI ÁC NGOÀI XÃ HỘI VÀ TRONG GIA ĐÌNH.
Bà
Julia thuật lại: "Khi tôi cầu nguyện, Mẹ rất thánh cho tôi
được thông phần vào những đau khổ của lòng Mẹ. Sau 30 phút chịu
những đau đớn âm ỉ tột độ trong người, tôi hầu như không chịu
nổi đuiợc, lúc ấy Đức Mẹ bắt đầu nói qua pho tượng với một giọng
nói thật buồn rầu, tiếng Mẹ thật dịu dàng và ấm cúng vô cùng.
Mẹ nói:
"Thật
đáng buồn khi thấy nhiều người vẫn còn nghi ngờ, sau khi đã chứng
kiến máu, mồ hôi và nước mắt Mẹ chảy ra và vẫn nghĩ rằng đó chỉ
là những giọt nước lạnh. Mẹ yêu cầu con nói cho họ biết thật rằng
Trái tim Chúa Giêsu Con Mẹ đã tan nát vì tội lỗi loài người đang
xúc phạm mỗi ngày một gia tăng. Con hãy truyền bá việc đọc kinh
Mân Côi trên khắp thế giới, để ngăn chặt chiến tranh và hoán cải
các linh hồn tội lỗi. Trái tim Mẹ cũng buồn đau ray rứt đến nát
tan, khi thấy người ta quá liều lĩnh phá hại thai nhi, giết các
con trẻ vừa thành hình trong lòng mẹ. Tội ngừa thai cách bừa bãi
.... Con hãy cầu nguyện để họ biết đáp lại tiếng cảnh giác của
lương tâm, mà chặn lại những hành động quái gở ấy.
Con
cũng hãy cho họ biết rằng: Trái Tim Mẹ hằng mong muốn loài người
được hạnh phúc, và mong muốn cho các gia đình đã được Thiên Chúa
tác hợp, luôn sống trong an bình. Nhưng khốn nỗi nhiều người lại
chất chứa trong lòng đầy những tư tưởng oán trách, hận thù, ghét
bỏ, ly thân, ly dị .....
Làm
sao các con có thể nói được rằng mình kính mến Thiên Chúa mà lại
thiếu yêu thương ngay những phần tử trong gia đình mình? Hãy thánh
hóa gia đình chúng con bằng chính sự yêu thương, hòa thuận. Hãy
thực hiện tinh thần hiệp nhất với nhau, ngay cả những người làm
việc cho Chúa Giêsu" (Ngày 18 tháng 7, 1985).
2.
MẸ KÊU GỌI CẦU NGUYỆN CHO
HÀNG LINH MỤC, TU SĨ.
"Các
con hãy cầu nguyện cho các Linh Mục, Tu sỹ. Trong thời đại này,
nhiều người được ví như ngọn đèn dầu lắt leo trước gió. Họ trở
nên như mục tiêu bị xã hội nhòm ngó, chê bai, rủ rê và mê hoặc,
cốt ý làm cho họ bỏ ơn kêu gọi, bỏ lý tưởng. Các con hãy tình
nguyện trở nên những lễ vật hy sinh để cầu nguyện cho họ. Hãy
hỗ trợ họ đến cùng, vì họ là những người con quý báu và thân thương
nhất của Mẹ" (Ngày 11 tháng 8, 1985).
3.
HÃY TIẾP NHẬN THÁNH THỂ
"Con
hãy nhấn mạnh cho mọi người biết về tầm quan trọng của Phép Thánh
Thể. Qua Phép Thánh Thể, Thiên Chúa ngự giữa các con, sống trong
các con và ở lại mãi mãi nơi trần gian. Nếu các con mở rộng tâm
hồn đón nhận Ngài với tâm hồn thanh sạch. Làm sao Chúa có thể
vào nhà các con được, nếu lòng các con không thanh sạch, thiếu
thành tâm, cửa tâm hồn các con khép kín" (Ngày 31 tháng 10,
1986).
4.
HÃY TRỞ NÊN TÔNG ĐỒ CỦA MẸ
Hỡi
các con của Mẹ, hãy gắng đón chịu những phiền nhiễu người ta gây
nên trên thế giới. Hãy khiêm nhu đón nhận những đau khổ ấy và
hiến dâng lên Chúa như một của lễ đền tội nhân loại. Hãy trở nên
tông đồ của Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ mà cứu rỗi các linh hồn bệnh
hoạn. Mẹ mong muốn các con hợp nhất, yêu thương, tin tưởng, kính
trọng, thành tín với nhau và làm trọn bổn phận của các con. (Ngày
13-2-1987).
7.
Bà Julia xuất thần và nhận năm dấu thánh:
Cha
Spicé đã chứng kiến vài lần xuất thần của bà giữa lúc bà được
cảm nhận những cơn đau đớn của Chúa Giêsu trên thánh giá.
Ngày
19 tháng 10 năm 1987, kỷ niệm lần thứ nhất Đức Mẹ hiện ra với
đầy nước mắt máu. Bà Julia đã xuất thần lúc 1 giờ 20 phút và lần
đầu tiên bà cảm nhận nỗi đau đớn của cuộc khổ nạn Chúa. Dấu đanh
ở chân xuất hiện và máu chảy toát ra từ nơi dấu đanh chân phải
của bà.
Ngày
29 tháng 1 năm 1988, Bà Julia cũng xuất thần và cảm nhận nỗi đau
khổ của Chúa và lãnh nhận hai dấu đanh nơi lòng hai bàn tay. Cơn
đau đớn khủng khiếp kéo dài hơn một giờ đồng hồ.
Ngày
4 tháng 2 năm 1988, sau khi cử hành Thánh Lễ, bà Julia từ từ ngả
người xuống và xuất thần. Hai mươi phút sau cơn ngất ngây, bà
Julia hét lên một cách thảm thiếtvà chuyển động thân mình giống
như Chúa Giêsu trên cây thánh giá. Chúa đã cho bà cảm nhận sự
đau đớn của Người khiến những người hiện diện không cầm được nước
mắt.
Sau
khi cha Spices ban phép lành cho bà, vài phút sau cơn xuất thần
chấm dứt, bà mở mắt ra và chỗi dậy. Bà Julia còn tiếp tục cảm
nhận những đau đớn kinh khủng mà Đức Mẹ yêu cầu bà lãnh nhận để
cầu nguyện xin ơn cứu rỗi cho các linh hồn phạm tội giết hại trẻ
thơ trong lòng mẹ.
Tại
Nazu nước mắt Đức Mẹ thường như mọi người, nhưng nhiều lần chảy
ra máu và nước, để lôi kéo sự chú ý của nhân loại, và Giáo Hội
biết Mẹ đã khóc vì người đời gây ra quá nhiều tội giết người mà
không áy náy. Tội ác này có thể đưa đến sự trừng phạt của Thiên
Chúa trên thế giới và trầm luân trên chính họ.
Chúa
mạc khải:
Cho
đến nay máu Cha vẫn còn đổ ra trên thánh giá để cứu vớt loài người.
Máu Thánh Cha sẽ không ra vô ích đâu vì Máu Thánh Cha có công
hiệu rửa sạch tội lỗi dơ bẩn của các con. Máu Thánh Cha là thuốc
chữa đặc biệt sẽ mở mắt các linh hồn bệnh hoạn và đánh thức các
linh hồn mê ngủ qua trung gian các linh mục.
Cha
buồn sầu vì nhiều người rước Cha vào lòng theo thói quen và với
một tâm hồn thờ ơ, nhạt lạnh. Ít linh hồn thương Cha, yêu Cha
và nói lên tâm tình yêu kính, thờ lạy và cảm tạ Cha sau khi rước
Cha vào lòng. Con hãy trở nên người con Cha yêu thương. (Ngày
5 tháng 6 năm 1988).
Thân
Mẫu Cha vẫn thường khuyến khích các con năng xưng tội, nhưng nhiều
con xưng tội mà không thành thật hối cải, cũng có người rước Cha
vào lòng mà không xưng tội. Điều ấy làm Cha đau khổ vì phải đến
trong một con tim tội lỗi. Nếu muốn Cha hoạt động trong con, đồng
hành động với con trên cuộc hành trình dương thế, con hãy giữ
tâm hồn thanh sạch, trong trắng, hãy thành thật khi đến toà cáo
giải để Cha thanh tẩy tâm hồn con. (Ngày 5 tháng 6 năm 1988).
Người
nào thật sự khát khao hối cải mà ước ao gặp Cha trong tòa cáo
giải, nhưng vì trở ngại không xưng tội được, họ vẫn có thể rước
Cha vào lòng, nhưng phải đi xưng tội một cách thành khẩn sơm bao
nhiêu có thể (Điều này hợp với Giáo Luật mới số 916). Nếu họ không
giữ lời hứa này thì sẽ mắc phải tội phạm thượng lớn lao đối với
Cha. Khi họ giữ lời hứa, Cha sẽ nhóm một ngọn lửa yêu mến lớn
hơn trong lòng họ, hơn cả họ chỉ đi xưng tội theo thói quen.
Hỡi
các linh hồn, các con hãy quần tụ bên bàn tiệc thánh, vì Cha là
lễ vật đã được hiến tế đang chờ đợi các con để chúng ta chia sẻ
tình yêu thương với nhau (Ngày 5 tháng 6 năm 1988).
Cầu
cho các vị có chức thánh:
Hỡi
các linh hồn nhỏ của Cha, các con hãy cầu nguyện cho Đức Thánh
Cha vị đại diện Cha dưới thế. Cầu cho các Hồng Y, các Giám Mục,
Linh Mục và những người mang chức thánh. Hãy dâng các việc hàng
ngày, các hy sinh tự nguyện, công việc từ thiện, bác ái với tha
nhân để cầu cho các ngài được nên thánh. Cha muốn các ngài theo
Cha với tinh thần nghèo khó (không mang dầy mang dép, không mang
hai áo...) Khước từ sự dung dưỡng bản thân và sống đời thanh khiết
tâm hồn.... Vì Cha đã trao phó mọi việc cho các ngài, đã ban quyền
thi ân cho các ngài khi các ngài cử hành các Bí Tích Phụng Vụ.
Các
ngài làm sao có thể nên dụng cụ xứng hợp cho Cha xử dụng nếu các
ngài không nên thánh. Cha muốn các con thánh hóa và dâng cả mọi
việc bổn phận trong đời mình cách thành tín, các hy sinh kín đáo,
có khả năng yên ủi, nâng đỡ các ngài trong sứ mệnh cao cả giữa
loài người. Cha muốn thường xuyên đổ đầy ơn thánh hóa trên các
ngài, những người con yêu qúy của Cha tuyển chọn. (Lễ Mình Máu
Thánh Chúa 5-6-1988).
Cầu
cho kẻ sát nhân:
Con
hãy nói cho nhiều người biết rằng: Nhiều người đang phạm tội sát
nhân hết sức độc ác, nhưng buồn là họ không biết mình là kẻ sát
nhân. Họ tước đoạt quyền sống của thai nhi, họ hạ phẩm giá con
người xuống và coi con người nhỏ bé trong lòng họ như một loài
súc vật họ được giết mà coi là vô tội. Họ tươc đoạt quyền làm
con Chúa vì các em không được rửa sạch tội nguyên tổ. Họ đã phạt
con người nhỏ bé của họ vào nơi lâm bô, nơi mà các em bé chẳng
được thấy, chẳng được vui hưởng với Cha trên trời. Những án tử
họ dành cho con nhỏ trong lòng họ ấy liệu có quá tàn nhẫn đối
với lương tri con người không?
Mẹ
quá đau xót vì mỗi ngày biết bao trẻ thơ vô tội bị án tử, bị chà
đạp một cách tàn nhẫn. Họ bóp nghẹt, họ xé rách, họ phanh thây
và sát hại bởi những người cha mẹ ích kỷ. Vì vậy Mẹ muốn các con
biết lũ trẻ thơ ấy đang van xin để được tha mạng và để đem người
tội lỗi trở về. Con hãy biết trẻ thơ không phải là một miếng thịt
bầy nhầy máu, nhưng là một sự sống đang tuôn lưu trong chúng từ
lúc thụ thai trong cung lòng người mẹ...... (Còn tiếp).
|