|
II.
LỊCH SỬ DÀI DÒNG VÀ KỲ DIỆU
Trong
các thế kỷ, trước hoặc sau khi Chúa
Kitô đến trần gian, lịch sử không
thiếu những phụ nữ mà ảnh hưởng,
hành động duyên sắc hoặc mưu đồ
đã thay đổi được cả những
biến cố. Họ đã thành công nhiều hay
ít là do những sáng kiến cá nhân của họ,
do môi trường sinh sống, hoặc do những
hoàn cảnh chính trị. Nhưng dầu sao đi
nữa thì những ảnh hưởng của
họ cũng bị giới hạn trong thời
gian và không gian.
Đối
với Mẹ Maria thì khác hẳn. Ảnh hưởng
của Mẹ thì vượt khỏi xứ sở
và thời gian Mẹ sống. Nguyên nhân của
ảnh hưởng ấy không xuất phát từ
thời cơ chính trị, từ giá trị cá
nhân của Mẹ, từ hành động của
Mẹ, hoặc từ những hoàn cảnh lặt
vặt khác. Phải tìm cách giải thích sự
thành công của Mẹ ở nơi cao hơn. Tất
cả mọi sự đều phát xuất do
sự tuyển chọn hoàn toàn tự do của
Thiên Chúa. Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển
trạch và sửa soạn để thi hành một
sứ mạng có tầm mức thế giới.
Chính
trong ánh sáng Mặc khải chúng ta có thể khám
phá ra được gương mặt thật
của Mẹ Đồng Trinh Maria. Chúng ta có một
khả năng và một nhu cầu hiểu biết
ngày một rộng lớn hơn, và đồng
thời chúng ta cũng tìm ra được những
giới hạn của chúng ta. Chúng ta tìm ra được
trong lòng chúng ta một nhu cầu khôn thỏa hiểu
biết hơn và yêu mến hơn. Trong chúng ta
có một ước vọng đạt tới
vô biên. Ước vọng ấy thật ra là một
nhu cầu phải cần đến Thiên Chúa.
Pascal tiên sinh nói về “Thiên Chúa có tấm lòng dễ
cảm”; Thiên Chúa tự bộc lộ một cách
kín đáo cho trí khôn và cho lòng chúng ta.
Thiên
Chúa còn hành động hơn thế nữa. Thiên
Chúa chẳng những tỏ mình ra là một Đấng
Tạo Hoá, là Chủ Tể trời đất,
nhưng Ngài còn tỏ mình ra là một người
Cha và là Tình Yêu. Ngài đã sai những người
đến nhân danh Ngài mà nói, đó là các Tiên tri,
rồi Ngài đã sai Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Nhờ Mặc khải, chúng ta biết thêm về
Thiên Chúa, biết thêm về thế giới và về
chính con người chúng ta. Nhờ những gì
Thiên Chúa đã phán với chúng ta về Con Ngài mà
chúng ta nhận ra được địa vị
thật của Mẹ Maria trong lịch sử
nhận loại. Đây không phải chỉ là
lãnh vực lý trí, nhưng còn là phạm vi đức
tin.
Đức
tin là một ánh sáng mới, một nguồn sáng
đột khởi từ thâm tâm chúng ta, và có Thiên
Chúa là tác giả. Đức tin là bóng tối và
đồng thời cũng là ánh sáng; đức
tin là xác thực và tìm kiếm, là chiếm hữu
và ước ao, là vui thỏa và khao khát hiểu
biết. Đức tin cho phép chúng ta chẳng những
hiểu được mầu nhiệm Maria, Mẹ
Thiên Chúa, nhưng làm cho chúng ta chấp nhận
và đi sâu vào mầu nhiệm để hiểu
mầu nhiệm hơn và thưởng thức
mầu nhiệm. Đức tin giúp chúng ta tín thác
vào Thiên Chúa ngay cả khi chúng ta không biết đức
tin sẽ đưa chúng ta đi tới đâu.
Đức tin không phải chỉ là sự chấp
nhận thuần lý một chân lý vượt khỏi
trí khôn con người, nhưng còn là một sự
tán đồng một cách yêu thương một
con người không muốn mà cũng không thể
lừa dối chúng ta.
“Đức
tin là bảo cho những điều hy vọng,
là tang chứng cho những việc chưa biểu
lộ” (Dt 11.1). Đức tin gồm hai yếu
tố, hoặc đúng hơn hai khía cạnh: đức
tin tín ngưỡng (la foi croyance) và đức
tin tín thác (la foi de confiance). Trong Phúc Âm
khi Chúa Giêsu trách các Tông đồ ít lòng tin, thì Chúa
trách đức tin tín thác của các ông. Trước
một người sẵn sàng giúp đỡ chúng
ta với tình bằng hữu, trái tim chúng ta có thể
chấp nhận hoặc từ chối; trước
một chân lý khoa học, chúng ta có thể hoàn toàn
vô cảm.
Nếu
Thiên Chúa thì Ngài hẳn phải nhân hậu. Nếu
thực sự có Thiên Chúa thì Ngài không thể hành
động vì nhu cầu hoặc vì tư lợi.
Thánh Gioan mặc khải cho chúng ta biết: “Thiên
Chúa là Tình Yêu” (1Jn 4.16). Nếu Thiên Chúa là Tình Yêu
thì Ngài chỉ có thể hành động vì tình yêu.
Nếu Ngài đã dựng nên thế giới, là
vì Ngài đã yêu thế giới, Ngài đã yêu thế
giới đến nỗi đã ban Con Một
mình cho thế giới. Thánh Tông đồ Gioan
quả quyết rằng: “Thiên Chúa đã quá yêu
thương thế gian đến nỗi đã
ban Con Một mình cho thế gian” (Jn 3.16). Người
Con ấy chính Mẹ Maria đã ban cho chúng ta. Người
ta chỉ có thể nhận thức được
vai trò Mẹ Đồng Trinh Maria trong lịch
sử thế giới bằng cách nghiên cứu
vai trò ấy dưới ánh sáng tình yêu khôn tả
mà Thiên Chúa đã yêu nhân loại chúng ta. Đức
tin mời gọi chúng ta giao thiệp với Thiên
Chúa là điều thiên hảo tối thượng
và là tình yêu hoàn hảo.
Chúng
ta phải khám phá hơn hết tình Thiên Chúa yêu
thương loài người trong các trang đầu
tiên của Thánh Kinh. Mọi sự bắt đầu
từ ánh sáng. Tất cả những gì Thiên Chúa
đã phán đều xảy ra trong đời
sống, và đều tốt đẹp. Đối
với con người, Thiên Chúa đã đích thân
can thiệp: “Ta hãy làm ra con người theo hình
ảnh Ta, như hoạ ảnh Ta… Thiên Chúa dựng
nên con người theo hình ảnh mình, theo ảnh
Thiên Chúa, Ngài đã dựng nên con người,
dựng nên họ có nam có nữ” (Kn 1.26). Rồi
Ngài nhìn lại tất cả những gì Ngài đã
làm với cái nhìn tán thưởng và yêu thương:
“Thật là tuyện mỹ” (Kh 1.31).
Đàn
ông và đàn bà không phải là kết qủa đơn
thuần của chu trình tiến hoá tuyệt diệu,
họ chính là hình ảnh Thiên Chúa đã dựng
nên họ. Họ không được cai trị
và tổ chức vũ trụ theo sở thích họ,
nhưng họ phải quy hướng về Thiên
Chúa, nghĩa là về vô biên. Không một cái gì có
thể làm cho họ được thỏa mãn
hạnh phúc nếu không phải là chính Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần một sự gì, không xin gì
với Ađam và Evà, ngoại trừ chỉ xin
hai nguyên tổ giao hảo với Ngài trong sự
trung tín tuân theo đường hướng Ngài
đã chỉ ra.
Trước
hết, Ađam và Evà được hưởng
hạnh phúc tràn trề trong một vũ trụ
mở hội: mọi sự đều mới
mẻ, mọi sự đều tốt đẹp.
Hai nguyên tổ yêu nhau và thánh phục nhau. Hai nguyên
tổ yêu Thiên Chúa, nhưng tình yêu ấy có chân
thành không? Hai nguyên tổ có thái độ nào trước
sự lựa chọn? Hai nguyên tổ có tín thác
vào lời Thiên Chúa không? Satan, kẻ thù của
tình yêu, xen vào và lý luận với Evà. Bà quả
quyết: “Thiên chúa đã phán: các ngươi đừng
đụng đến cây này, bằng không các ngươi
sẽ chết”; con rắn vặn lại: “Không
phải thế đâu!” (Kn 3.3). Evà tin tưởng
lời con rắn điên đảo, Ađam lại
tin tưởng Evà: chẳng còn coi Thiên Chúa ra gì
nữa. Hai nguyên tổ đã sa ngã, đã hổ
thẹn, và niềm hân hoan đã vụt tắt.
Thiên
Chúa không thất vọng, tình yêu của Ngài không
thể chiến bại. Ngài tái tạo lại
sự nghiệp của Ngài hoàn hảo hơn:
một Evà mới sẽ sinh ra cho thế giới
một người con, người không phải
chỉ được tạo dựng nên giống
hình ảnh Thiên Chúa, nhưng người là hình
ảnh của chính Thiên Chúa, hình ảnh sống
động, không thể bị huỷ diệt,
Con Một Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Hai nguyên tổ Ađam
và Evà đã từ bỏ Thiên Chúa, nhưng Thiên
Chúa không từ bỏ hai nguyên tổ, Ngài muốn
tiếp nối lại cuộc đàm thoại.
Chính Thiên Chúa đi bước đầu. Ngài
tiếp tục yêu mến mặc dầu Ngài không
được yêu mến lại. Hình ảnh của
Ngài tuy đã bị biến dạng nhưng Ngài
vẫn quý mến; Ngài bao giờ cũng yêu mến
vì tình yêu của Ngài không giới hạn và không
ân hận.
Ađam
đổ lỗi cho Evà: “Người đàn bà
Chúa đã ban cho con”. Chỉ còn một tí nữa
là ông sẽ đổ trách nhiệm cho Thiên Chúa,
vì Ngài đã ban cho ông người đàn bà! Evà
thẳng thắn hơn; bà tự nhận đã
để con rắn lừa dối, nhưng không
chữa mình vì đã tin lời con rắn. Ađam
cũng như Evà, cả hai đều không tìm
cách lấy lại ân sủng nơi Thiên Chúa. Ngài
không nguyền rủa hai nguyên tổ, Ngài nguyền
rủa con rắn. Lời chúc dữ không làm hại
gì con rắn, nhưng gây hậu quả cho kẻ
đội hình con rắn, cho cha sự dối
trá, cho quỷ dữ, như tên nó ám chỉ, nó
luôn luôn xê xích bằng bụng. Thiên Chúa báo trước
cuộc chiến thắng của nó chỉ có dáng
vẻ bề ngoài, và thật ra cuộc chiến
bại của nó mới thảm khốc.
Evà
đã tin tưởng vào lời con rắn; con
vật quỷ quyệt đã lừa dối bà.
Người phụ nữ khác, con gái Evà, sẽ
chiến đấu và sẽ báo thù cho danh dự
của mẹ mình. Thiên Chúa báo trước người
phụ nữ này khi phán cũng con rắn rằng:
Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người
nữ, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người
nữ; người nữ sẽ đạp dập
đầu mi, và mi sẽ rình cắn gót chân người”
(Kh 3.15). Người ta gọi đoạn Thánh
Kinh này là tiền Phúc Âm (Protevangile), nghĩa là đoạn
Thánh Kinh đầu tiên báo trước Tin Mừng.
Phúc Âm có nghĩa là Tin “Mừng”, là việc Chúa
Cứu Thế đến nhờ Mẹ Đồng
Trinh Maria. Người phụ nữ và miêu duệ
của người mà Thiên Chúa đề cập
đến không phải là Evà và dòng dõi bà theo huyết
nhục nữa, nhưng là người phụ
nữ tuyệt diệu, là Mẹ Maria và dòng dõi
của Mẹ, là Chúa Kitô và tất cả các chi
thể của Chúa Kitô.
Hai
nguyên tổ Ađam và Evà từ dã vườn địa
đàng để sống trên trái đất và
trồng trọt đất đai. Những đô
thị được thiết lập, các ngành
nghệ thuật được thịnh vượng,
những thế kỷ qua đi, và điều
ác tiến triển. Con người phân tán vì không
giống nhau; hình ảnh Thiên Chúa mà họ luôn luôn
mang theo đã trở nên ít thích hợp với khuôn
mẫu củ họ. Thiên Chúa muốn làm lại
sự nghiệp của Ngài và dũng Đại
hồng Thuỷ thanh tẩy trái đất. Ngài
muốn cứu vớt chứ không muốn huỷ
diệt. Để thực hiện ý niệm ấy,
ngài uỷ thác kế hoạch cho ông Noe, một
người công chính và không khuết điểm.
Thánh Kinh nói về ông Noe như sau: “Ông bước
đi trước mặt Thiên Chúa” (Kn 6.9), câu nói
thật rất hay và tất cả là mọi chương
trình. Ngày rồi ngày, trong một dáng điệu
tiên tri, ông Noe đóng tàu để cứu một
số nhỏ còn lại sẽ di dân đi khắp
mặt đất. Người thời ấy
không muốn hiểu, và trận đại hồng
thuỷ đã ngập lụt tất cả.
Sau
trận lụt, Thiên Chúa ký kết một giao ước
với ông Noe, với các con của ông, và với
tất cả các sinh vật sống trên trái đất.
Ngài đoan hứa sẽ không có đại hồng
thuỷ nữa. Thiên Chúa đã dùng cầu vồng
để làm dấu chỉ lời giao ước
và lời đoan hứa ấy. Vì lời giao ước
là phổ quát, nên dấu chỉ cũng phải
chung cho mọi thời đại và mọi xứ
sở. Thiên Chúa phán với ông Noe rằng: “Đó
là dấu giao ước Ta đã lập giữa
Ta và mọi loài có xác trên mặt đất” (Kn
9.17). Cầu vồng mời gọi chúng ta hãy hy
vọng; khi cầu vồng xuất hiện là
dấu chỉ mưa sẽ tạnh và mặt
trời đã le lói ở đâu đây, mặc
dầu chúng ta không trông thấy. Cầu vồng
là dấu chỉ giao ước và là dấu chỉ
hy vọng, vì thế cầu vồng đã trở
nên một hình ảnh tượng trưng cho Mẹ
Đồng Trinh Maria. Mẹ Maria phải chiếu
toả ánh sáng Chúa Kitô trong ánh sáng chan hoà. Mẹ
là dấu chỉ Chúa Kitô, mặc dầu vô hình,
nhưng đang hiện diện trong thế giới
chúng ta, và là dấu chỉ lòng tín thác chúng ta phải
vững chắc.
Cùng
với Ađam lời giao ước được
xác định và trở nên riêng tư. Đây là
một hiệp ước hữu nghị giữa
Thiên Chúa và dòng dõi Abraham. Dấu chỉ của
hiệp ước này là việc cắt bì. Lời
giao ước được hoàn toàn tự do
về phía Thiên Chúa, vì thế Ngài khấng tỏ
lòng nhân hậu đặc biệt với người
này hoặc người nọ trong gia tộc Abraham.
Trước hết là với Giacóp được
yêu quý hơn Ismael; rồi Giacóp chiếm chổ
Esau. Thiên Chúa được tự do chọn lựa,
và không ai có quyền bắt Ngài phải nói tại
sao. Từ những miêu duệ Abraham được
Thiên Chúa tuyển chọn đã phát sinh những
cạnh tranh và thù hằn còn tồn tại cho
đến ngày nay.
Phải
chăng Mẹ Đồng Trinh Maria được
tràn đầy hồng ân Thiên Chúa trong dòng dõi Abraham
lại không được trao phó nhiệm vụ
tụ họp các anh chị em cùng nòi giống của
Mẹ trong cùng một tình yêu Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên
Chúa và Con Abraham sao? Thiên Chúa đã không từ chối
lời giao ước ký kết với các dân tộc
hậu duệ Abraham, Ngài đã tăng cường
và rộng mở lời giao ước cho đến
những kẻ nhờ đức tin nên con cái
Abraham trong Chúa Giêsu Kitô.
|
|