|
|
Dịch
giả: Phạm Ðình Khiêm |
|
Ðức
Nữ Trinh Maria Trở nên Mẹ Ta Khi Nào?
Khi Ðức
Nữ Trinh Maria nên mẹ Chúa Giêsu, ấy
là chính lúc Người nên Mẹ
ta. Một lần nên Mẹ, Người vừa
là Mẹ Chúa Giêsu, vừa là Mẹ
loài người, tức là phần thân
thể Chúa Giêsu, do Chúa Giêsu cứu
chuộc.
Ðức
Chúa Giêsu đã được kết
thai làm Người bởi tác động
Chúa Thánh Thần
và sự thỏa thuận cộng tác của
Ðức Nữ Trinh. Như vậy, cùng một
lúc ấy, chúng ta đã được
kết thai làm người giáo hữu cũng
bởi hai công việc kia hiệp lại. Không
có Ðức Bà Maria, không có sự
ưng thuận của Người, Chúa Giêsu
đã chẳng sinh làm người.
Ðức
Chúa Trời đã để công cuộc
lớn lao nhất của người, công
cuộc Giáng sinh và Cứu thế, tuỳ
thuộc sự ưng thuận của một
loài thụ tạo thường, một nữ
trinh bé mọn. Vậy Người cũng
để cho mọi hiệu lực của công
cuộc cứu thế, mọi ơn thánh ban
phát ra, mọi linh hồn được cứu
chuộc, cũng phải tùy thuộc sự
ưng thuận ấy.
Ðức
Nữ Trinh chí thánh không những đã
nghiễm nhiên trở nên Mẹ ta khi chịu
thai Chúa Giêsu, mà Người còn hiểu
rõ việc ấy. Có lẽ nào Ðức
Chúa Trời lai giấu Người điều
mầu nhiệm ấy? Phẩm tước làm
Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ loài người
sẽ có những hiệu quả rất vẻ
vang và đồng thời rất bi đát
đối với một tâm hồn từ
mẫu, đến nỗi nếu Ðức Bà
Maria chẳng rõ mọi chi tiết, chẳng
tường sau trước, âu là Người
đã chẳng được quyền tự
quyết và đồng ý ưng thuận.
Lại nữa,
khi Người ngỏ lời ưng thuận
điều Thiên Thần truyền tin "Fiat"
thì chẳng những Người biết trước
các hiệu quả của lời ấy mà
Người còn tình nguyện vui nhận
những hiệu quảkia cách thiết thực,
với tất cả sự hăng nồng của
Trái Tim từ mẫu Người, để
giải thoát ta khỏi hỏa ngục.
Ôi, Người
biết lắm: nhận Ðức Chúa Giêsu
làm con, tức là phải nhận cả
ta làm con nữa. Nhận ta làm mất Chúa
Giêsu, là giết Chúa Giêsu. Mà cứu
Chúa Giêsu thì lại mất ta, lại
đầy ta vào hỏa ngục. Vậy nên
Mẹ Maria đành lòng nhận trước
một đời sống đau đớn và
khổ cực vô cùng.
Trong Sấm
Truyền cũ có kể truyện của Rêbêca
mang thai hai đứa con đôi: Êsau và
Gia-cóp: bà cảm thấy chúng đánh
nhau trong bụng mình: Collidebant in utero ejus parvuli,
làm bà rất đau đớn, phải
than rằng: Nếu biết cơ sự đến
thể này, tôi còn chịu thai làm
chi? Sic huc futurum mihi erat. quid necesse fuit concipere?
Ðức
Nữ Ðồng Trinh cũng chịu thai và
mang trong lòng mình hai người con đôi
là Chúa Giêsu và loài người
như thế, và hai con cũng không thỏa
thuận với nhau, vì Chúa Giêsu công
chính mà loài người tội lỗi:
collidebant in utero ejus: Sự tương phản
giữa hai con làm cho Ðức Mẹ đau
đớn vô hồi. Người biết
rằng sự sống của con này sẽ
là cái chết của con kia.
Kinh Thánh
kể tiếp: khi hai đứa con đôi
ra đời, thì tay Gia-cóp cầm chân
Êsau. Gia-cóp là em, tượng trưng
loài người mà Thiên Chúa muốn
cứu chuộc, nó không thể lìa biệt
anh nó là Chúa Giêsu Cứu Thế,
và Chúa Giêsu cũng chỉ sinh ra lúc
em Chúa đã bắt đầu sinh với
Chúa. Bà mẹ đáng thương ấy
nhìn hai con lớn lên, nhưng trong lòng
Người, cuộc phân tranh vẫ? không
thôi dằn vật. Chúa Giêsu là con
cả, con yêu dấu của Ðức Chúa
Cha. Người được quyền hưởng
gia nghiệp vì là con trưởng.
Mẹ yêu
Chúa vì Chúa là con Mẹ, Con cả
của Mẹ, nhưng Mẹ cũng yêu Gia-cóp
vì Mẹ đã từng mang nặng Gia-cóp
trong thai cùng với Chúa Giêsu, mà Gia-cóp
thì lại giống hệt Mẹ vì cùng
dòng dõi loài người như Mẹ.
Và Mẹ đứng làm trung gian can thiệp
để đứa em thứ ấy, tuy không
có tước trưởng nam cũng được
dự quyền trưởng nam với Anh Cả,
được chiếm lấy đặc ân
của Chúa Giêsu, đoạt lấy gia
nghiệp Người và để phần
lao khổ lại cho Người.
Nhưng biết
bao âu sầu lo lắng trong Trái Tim hiền
mẫu Mẹ Maria khi Người mưu toan cuộc
thay bậc đổi ngôi gay cấn ấy.
Biết bao điều cực lòng cho Người
khi phải đặt Chúa Giêsu yêu dấu
sau con người tội lỗi, rồi lại
phải cho khéo léo mới làm nguôi
được cơn giận Thiên Chúa
đối với loài người lỗi
phạm, sau cùng lại phải bao cố gắng
để hòa giải hai anh em trong tình giao
hảo muôn đời.
Ôi, lạy
Mẹ yêu mến! Con đã làm Mẹ
chảy biết bao nước mắt. Nhưng
đối lại, con yêu Mẹ lắm. Con
muốn ở luôn bên Mẹ như Gia-cóp
bên cạnh mẹ mình. Con không có
quyền hưởng phần gia nghiệp mà
chỉ Chúa Giêsu mới có tư cách
được hưởng, nhưng Mẹ là
Mẹ chung của anh em chúng con, Mẹ sẽ
xin Ðức Chúa Cha chúc lành cho con và
Mẹ sẽ làm hòa con với Chúa Giêsu.
Ôi, lạy
Mẹ nhân lành! Ðó là điều
Mẹ đã bắt đầu làm cho linh
hồn con. Xin Mẹ hãy làm tròn việc
Mẹ, xin Mẹ hãy cho con hưởng hẳn
phần gia nghiệp của Chúa Giêsu. Xin
Mẹ hãy lấy những nhân đức,
những công nghiệp, những tâm tình
của Anh Cả con mà mặc cho con, như
bà Rêbêca lấy áo Êsau mặc
cho Gia-cóp. Như vậy Cha trên trời
sẽ nhìn nhận con như chính Giêsu
con Người, Người sẽ chúc phúc
cho con và ban cho con dự phần gia nghiệp
Con Người.
Ðức
Nữ Ðồng Trinh trở nên Mẹ ta
lúc Chúa Giêsu đầu thai làm người.
Người bắt đầu thực hành
công khai thiên chức êm đềm ấy
khi Người dâng con yêu dấu trong đền
thờ. Lễ Dâng Con trong đền thờ
là một nghi lễ tượng trưng, có
ý chỉ Anh Cả là Ðấng Cứu
Thế đã trở nên của Lễ Hy
sinh dâng hẳn cho Ðức Chúa Trời
để giải phóng đoàn em.
Của Lễ
Hy sinh ấy, chính Ðức Mẹ hai tay mang
tới đền thờ để hiến tế
cho Thiên Chúa và Thiên Chúa chấp
nhận lễ vật. Ðức Mẹ có
chuộc con về, chẳng qua cũng chỉ
giữ được ít lâu thôi, Người
biết rõ lắm. Mà giả sử Người
không biết, thì lời tiên tri Simêon
đã nhắc cho Người biết mầu
nhiệm sợ hãi ấy. Ông nói: "Con
trẻ này sẽ làm cớ cho nhiều
người trong dân Ích-ra-en vấp phạm
và làm bia cho miệng người phản
đối. Còn bà, một gươm sắc
sẽ thâu qua lòng bà". Làm lễ
dâng Con rồi, Ðức Mẹ lại ẵm
lấy Con vô giá vào lòng, nhưng
Người biết rằng Con Giêsu không
còn thuộc về Người nữa, sau
này sẽ phải án chết, Người
có gìn giữ dưỡng nuôi chẳng
qua chỉ là nuôi dưỡng một con
chiên đợi ngày sát tế.
Khi con gái
vua Pharaon cứu được con trẻ Maisen
khỏi chết đuối dưới giòng
sống Nilô, nàng liền tìm một
bà vú để nuôi cậu bé Do thái
ấy. Bà mẹ Maisen liền đến trình
diện dể nhận nuôi, dầu biết
rằng khi con khôn lớn sẽ phải dâng
trả công chúa. Cứu được
con thoát chết, bà mẹ kia vui mừng
xiết bao, nhưng sự vui mừng ấy lại
hòa lẫn với mối buồn man mác
khi thấy con không thuộc về mình nữa,
và mình phải trả cho triều đình
vô đạo.
Mẹ cũng vậy,
hỡi Mẹ Maria, Mẹ nhận Con yêu dấu
của Mẹ ở tay ông già Simêon nhưng
Con Trẻ ấy không còn hoàn toàn
là của Mẹ nữa: Mẹ sẽ phải
phó Con cho kẻ thù, kẻ vô đạo
và chúng sẽ giết Con Mẹ. Thực
ra với điều kiện ấy, Mẹ sẽ
cứu sống được tất cả những
con khác của Mẹ, nhưng đau đớn
thay cho Mẹ vì phải mất người
Con Cả, người con ưu tuyển ấy.
Nỗi khổ tâm
này sẽ không bao giờ thôi xâu
xé lòng Ðức Mẹ. Từ nay điều
gì cũng sẽ nhắc cho Ðức Mẹ
nhớ rằng con Trẻ Giêsu kia không thuộc
về Người nữa. Trí Người
sẽ liên tưởng đến cảnh
con bị nộp cho quân dữ, bị xỉ
vả, bị khổ hình đến nỗi
chết.
Ðôi khi chính
Chúa Giêsu cũng nhắc cho
Ðức Mẹ nhớ rằng Chúa
không thuộc hẳn về Ðức Mẹ
nữa, như khi Chúa lạc Ðức Mẹ
và ở lại ba ngày trong đền thờ,
và khi ở Nagiarét, những lúc mẹ
con trò truyện, thỉnh thoảng Chúa
cũng dẫn câu truyện về cái cảnh
tượng đau đớn ấy, cảnh
tưởng hy sinh tử nạn cuối cùng
sẽ đến.
Nhưng Chúa Giêsu
cũng cho Ðức Mẹ biết Chúa có
chịu chết, bao người trần thế
mới được cứu rỗi, nên Ðức
Mẹ lại vui mừng vì các con cái
khác của Người sẽ được
hạnh phúc. Hết lo sợ, phiền não,
lại hy vọng, vui mừng: trong bao năm trường,
Ðức Mẹ phải sống vật vờ
giữa những tình cảm mâu thuẫn
ấy.
Ôi, Người
đã chịu chết biết bao đau khổ
vì tôi trong suốt cuộc đời Người,
thế mà tôi lại vô tình chẳng
biết những đắng cay tôi đã
gây nên cho Người. Ðức Nữ Ðồng
Trinh đã chịu thai ta lúc Chúa Ngôi
Hai nhập thể: Người mang ta trong lòng
khi Người dâng Chúa Giêsu trong đền
thờ và hằng dâng liên tiếp trong
lòng Người cho tới ngày Chúa chịu
nạn: sau cùng Người sinh hạ ta trong
cơn đau đớn dưới chân Thánh
Giá khi Chúa Giêsu tắt thở trước
mặt Người.
Sách truyện các
Vua kể lại truyện rất cảm động
này: Nước Ích-ra-en mất mùa đã
ba năm, dân tình thật khốn khổ.
Vua Ðavít cầu khấn Thiên Chúa,
được Thiên Chúa cho biết: nguyên
nhân bởi tội Saolê và nhà Saolê
đã giết oan nhà Gabaônít. Vua Ðavít
liền hỏi nhà Babaônít được
đền bù cách nào, nhà ấy đòi
phải nộp cho họ bảy người trong
dòng dõi Saolê để xử trên
thập giá. Trong số bảy nạn nhân
ấy có hai người con bà Rết-pha,
vợ Saolê.
Bà mẹ đáng
thương kia đã bằng lòng hiến
mạng hai con với một lòng nhẫn nại
phi thường. Khi hai con đã bị đóng
vào thập giá dựng trên núi, bà
liền mặc áo nhặm, đi đến
pháp trường, giải áo tang ra trên
tấm đá dưới chân thập giá,
rồi can đảm ngồi đợi giờ
chết của hai con. Và khi hai con đã
tắt thở, lòng đau xắt lại, bà
vẫn ngồi đó, canh giữ kẻo muông
dữ ăn thịt con.
Hỡi Mẹ Maria chí
ái! Bà Rết-pha trong Cựu ước
ấy chính là Mẹ. Theo mệnh lệnh
của Thiên Chúa, người ta đến
bắt con Mẹ để đền tội
cho toàn dân người ta đem con Mẹ
đi đóng đinh, mà Mẹ chẳng
một lời kêu trách. Không những thế,
khi Chúa Giêsu vác thập giá lên
núi Gôn-gô-tha, Mẹ còn theo sau, ảo
não trong bộ tang phục. Chân Mẹ giẫm
lên máu Chúa chảy xuống dọc đường.
Và khi người ta đóng đinh Chúa
vào Thập giá, Mẹ đứng đó,
nghe rõ những tiếng thở dài từ
ngực Chúa phát ra, nhìn rõ những
gân Chúa con lại dưới sức búa
đập mạnh, chứng kiến cái thảm
cảnh Chúa bị treo lơ lửng giữa
trời với đất lòng đau như
cắt, mắt không rời con, Mẹ đứng
đó, lấy sự có mặt của Mẹ
và cái uy thế của nỗi đau khổ
mà bênh vực con trước những lời
phỉ báng của bọn lang sói đóng
đinh Chúa.
Rồi, giữa cái
lúc bi thảm và long trọng ấy, trước
khi tắt thở một vài phút, Chúa
Cứu Thế đã tuyên bố lời
mầu nhiệm: Hỡi Bà, đây là
Con bà đoạn nghoảnh nhìn người
tông đồ yêu dấu, Chúa nói
tiếp: Ðây là Mẹ em.
Trong giây phút
quan trọng nhất này của đời
Chúa cũng như của muôn đời,
Chúa Giêsu không chỉ giải quyết
riêng một vấn đề gia đình
Chúa mà còn muốn làm một việc
can hệ hơn nhiều, là giải quyết
vấn đề cứu chuộc nhân loại.
Những lời Chúa phán đây cũng
như tất cả những lời Chúa giảng
dạy trong suốt cuộc đời Chúa,
đều có một ý nghĩa thiêng
liêng, một ý nghĩa cứu thế. Ðức
Mẹ đã nên Mẹ Chúa Giêsu và
Mẹ ta ngay từ lúc truyền tin. Người
đã hiểu rõ đặc ân và
thiên chức của Người là Mẹ
loài người. Nhưng giờ đây
là lúc hoàn tất công cuộc Cứu
thế, Chúa Giêsu lại muốn, trước
mặt các môn đệ, công khai phong
cho Ðức Mẹ tước phẩm làm
Mẹ loài người, và Chúa đã
làm việc ấy cách trịnh trọng,
bi ai, như dối một lời di chúc.
Ngày ấy Chúa
đã dùng miệng thiên thần mà
đề nghị cùng Nữ Trinh bà muốn
làm mẹ tôi chăng? Muốn vậy thì
Bà hãy làm mẹ cả những người
có tội là anh em tôi, sau này sẽ
giết tôi trước mặt bà, và
Nữ Trinh đã không ngần ngại trả
lời: Tôi xin vâng "Fiat".
Giờ đây là
màn chót tấn bi kịch đãm máu,
Chúa Giêsu muốn nói tiếp cùng
Ðức Nữ Ðồng Trinh: Bởi vì
bà đã không tiếc giữ con một
bà để cứu chuộc kẻ có tội,
thì này đây tôi giao phó hết
thảy những kẻ ấy cho bà: họ
là sở hữu của bà. Chính lúc này
là lúc Ðức Mẹ bắt đàu
chấp hành quyền trực tiếp làm
Mẹ loài người. Từ trước
đến giờ, Người vẫn tập
trung tình thương yêu ta trong Trái Tim
Người Người âm thầm mang ta trong
lòng từ mẫu Người, Người
giấu kín mối tình bí nhiệm ấy,
nhưng bây giờ là lúc Người
đã sinh hạ ta cách thiết thực
trong đời sống siêu nhiên, nên
Người bắt đầu chu toàn nghĩa
vụ êm đều ấy cách công khai.
|
|