|
LỄ MẸ THIÊN CHÚA
Ngày mồng 1 tháng Giêng
_____________
I.
TIẾN TRÌNH TÍN ĐIỀU MẸ THIÊN CHÚA
Đức
Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là
Mẹ trong trật tự sản sinh nhân loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai
và hạ sinh là Thiên Chúa, nên Mẹ phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
Tín lý này đã được Phúc âm thánh Luca minh hoạ rõ ràng, và từ
thế kỷ II đã được các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô,
Cyrillô Alexandria, Augustinô, Epiphanô diễn giải sâu rộng để
đối phó với lạc thuyết của các bè rối Gnosticism, Docetism. Thánh
Gioan Tông đồ loan báo chứng thực rõ ràng rằng ngài đã từng mắt
thấy, tai nghe và đụng chạm tới Chúa Giêsu là Ngôi Lời hằng sống
đã xuất hiện , vậy mà các bè rối đó vẫn nói Chúa Giêsu chỉ là
ảo tượng. Lạc thuyết này muốn phá đổ tự nền tảng công cuộc Cứu
chuộc của Chúa Kitô. Vì thế, các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm
chức Thiên mẫu của Mẹ Maria để phá tan lạc thuyết này rằng Đức
Trinh Nữ không thể là Mẹ nếu không có Con. Và Người không có Con,
nếu Chúa Giêsu chỉ là một bóng ma. Giáo phụ Tertulianô bác bỏ
Marcion người lạc giáo: "Mục đích phủ nhận thân xác Chúa
Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để chối bỏ việc Người
sinh ra, ông phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác và sự đản sinh làm
chứng lẫn nhau: Không có sự đản sinh thì cũng không có thân xác.
Hoặc là không có thân xác thì không có sự đản sinh.
Khi
thấy Chúa đi trên mặt biển và khi thấy Chúa hiện ra sau khi Người
sống lại, các tông đồ tưởng Người là ma. Nhưng Người đã quả quyết:
"Chính Thầy đây!" Như vậy Chúa Giêsu có thân xác thực
sự sống động. Mà nếu thân xác Người là thân xác của Thiên Chúa
bởi trinh huyết Đức Trinh Nữ Maria, thì Đức Maria phải được gọi
là Mẹ Thiên Chúa. Một thân xác là thân xác của Thiên Chúa lúc
hiệp với ngôi Con Thiên Chúa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha.
Sang
thế kỷ III và thế kỷ IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao
rao chúc tụng Mẹ Thiên Chúa. Năm 325, Công đồng Nicêa I (nay là
Iznik, bắc Thổ nhĩ kỳ) lên án lạc giáo Ariô, đồng thời định tín
Ngôi Lời đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và đặt kinh Tin kính (gọi
là kinh Tin kính Nicêa đọc trong thánh lễ). Tín điều này chứng
minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, cùng với tín lý Mẹ Thiên Chúa
của các thánh Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ Thiên Chúa
của Công đồng Ephêsô sau này.
Đến
thế kỷ V, trong khi tín lý Mẹ Thiên Chúa đang được các Giáo phụ
rao giảng rất minh bạch và phấn khởi, thì Nestoriô, thượng phụ
giáo chủ thành Constantinopôli lên tiếng trong các bài giảng phản
đối, vì ông chủ trương rằng: Chúa Giêsu có hai bản tính nên có
hai ngôi vị. Đức Maria chỉ là Mẹ ngôi vị nhân tính của Chúa Giêsu,
nên không phải là Mẹ Thiên Chúa. Năm 430, một hội đồng tại Rôma
lên án lạc giáo Nestôriô, và Đức Thánh Celestinô I viết một bức
thư khuyến cáo Nestôriô. Nestôriô tâu xin hoàng đế Thêôdôsiô I
triệu tập Công đồng Êphêsô năm 431. Nhưng Thánh Cyrillô, Thượng
phụ giáo chủ thành Alexandria, được Đức Thánh Celestinô uỷ nhiệm
chủ toạ công đồng gồm khoảng 250 giám mục Đông phương, một giám
mục Tây phương và một phó tế thành Carthage cùng với ba đặc sứ
của Đức Celestinô. Mặc dù sự phản kháng của 68 giám mục tán đồng
lạc giáo Nestôriô và sự cản ngăn của Candidianô, sứ giả của hoàng
đế Thêôdôsiô, Công đồng vẫn khai mạc ngày 22 tháng 6 tại đền thờ
Đức Mẹ tại Êphêsô. Công đồng minh định Chúa Giêsu có hai bản tính
nhưng chỉ có một ngôi vị duy nhất là Thiên Chúa. Mẹ Maria là Mẹ
thật của Chúa Giêsu nên Mẹ thật là Mẹ Thiên Chúa. Rồi Công đồng
long trọng tuyên tín: "Nếu ai không tuyên xưng Emmanuel là
Thiên Chúa thật, và do đó Rất Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa,
vì Mẹ sinh ra xác phàm của Ngôi Lời nhập thể, thì mắc vạ tuyệt
thông". Đồng thời, các Nghị phụ ký giấy ra vạ cho Nestôriô:
"Vì Chúa Giêsu Kitô bị Nestôriô xỉ nhục, Thánh Công Đồng
này đã tuyên bố Nestôriô bị loại trừ khỏi chức phẩm giám mục và
khỏi mọi hiệp thông linh mục".
Tại
Công đồng, Thánh Proclô thẳng thắn chống lạc giáo Nestôriô. Và
Nghị phụ Giám mục Thêôdôtê Ancyre (446) triệt để ủng hộ Thánh
Cyrillô và gắt gao tố cáo buộc tội Nestôriô rối đạo. Trong khi
Công đồng đang diễn tiến, Thánh Cyrillô viết cho Giám mục Acaciô
Beroea có nói đến năm giáo phụ cũng lên án Nestôriô: Đó là hai
Thượng phụ Alexandria là Athanasiô và Thêôphilê, hai Thượng phụ
Constantinopôli là Grêgôriô và Atticô. Và vị thứ năm là Thánh
Basiliô. Sau này, Nestôriô bị đày vào đan viện Euprépia gần Antiôkia,
rồi tại một ốc đảo bắc Aicập cho tới chết trong sự cố chấp và
buồn bực.
Ngay
chiều hôm đó, toàn dân thành Êphêsô phấn khởi nô nức thắp đuốc
tưng bừng, rực sáng, tổ chức một cuộc rước đuốc vĩ đại reo mừng
sự vinh thắng của Mẹ Thiên Chúa, và hoan hô các Nghị phụ Công
đồng Êphêsô. Họ cũng đem đuốc hộ tống các ngài về đến tận nhà.
Tín điều Mẹ Thiên Chúa do Công đồng Êphêsô long trọng tuyên tín,
như một luồng gió xuân tươi mát dịu dàng trào thổi từ Êphêsô sang
khắp các miền Alexandria, Constantinopôli, Antiôkia, sang Rôma,
khắp Âu châu rồi dần dần ra khắp hoàn cầu. Lòng sùng kính mến
yêu Mẹ Maria thêm muôn phần phấn khởi đã được biểu hiện ra nhiều
việc sùng mến Mẹ Thiên Chúa: Nhà thờ Đức Mẹ nơi diễn tiến Công
đồng Êphêsô đã trở thành Vương cung thánh đường Mẹ Thiên Chúa.
Năm 432, Đức Sixtô III xây cất lại và cung hiến Đền thờ Đức Bà
Cả trên đồi Esquilinô tại Rôma mà Đức Liberiô xây cất năm 352
cho Mẹ Thiên Chúa, và nâng lên bậc Vương cung thánh đường.
Năm 451, Công đồng Chalceđônia cũng tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ
Thiên Chúa. Đồng thời, Thánh Pulcheria nữ hoàng Byzantin, kiến
thiết hai đền thờ Mẹ Thiên Chúa tại Constantinopôli. Năm 534,
Đức Gioan II tuyên nhận Mẹ Maria là Mẹ thật của Thiên Chúa. Năm
553, Công đồng Constantinopôli II tái tuyên nhận tín lý chức phẩm
Thiên Mẫu. Từ đó nhiều nhà thờ dâng kính Mẹ Thiên Chúa được xây
cất tại Thụy sĩ, Hoà lan, Đức, Anh, và Pháp. Riêng Pháp có năm
đền thờ Mẹ Thiên Chúa ở Reims, Coutances, Tours, Poitiers, và
Toulouse. Ảnh tượng Mẹ Thiên Chúa cũng được phổ biến khắp nơi,
đặc biệt là ảnh Mẹ Thiên Chúa do Thánh Luca minh hoạ. Tới nay
rất nhiều hoạ sĩ vẽ ảnh hay nghệ sĩ tạc tượng Mẹ Thiên Chúa với
nhiều kiểu, theo nhiều văn hoá dân tộc tuyệt đẹp. Và các Thánh
tiến sĩ các nhà thần học, các Đức Giáo hoàng liên tiếp rao giảng
và chúc tụng Mẹ Thiên Chúa.
Năm
1215, Công đồng Lateranô IV tuyên nhận Chức phẩm trinh trong Mẹ
Thiên Chúa. Năm 1427 trong một bài giảng, Thánh Bênađinô đọc lời
cầu nguyện: "Ave Maria Jesus, Sancta Maria, Mater Dei, ora
pro nobis". Câu "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho
chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử" được
đưa vào kinh do các nữ tu Dòng Đức Bà Tình Thương (Our Lady of
Mercy) năm 1514, các đan sĩ Dòng Camaldolesia năm 1515 và Dòng
Phanxicô năm 1525. Năm 1568, Đức Thánh Piô V chính thức xác định
như chúng ta thường đọc ngày nay.
Công
đồng Vatican II (1962-1965) dạy: "Từ muôn đời, Đức Trinh
Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập
Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai
trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu
Chuộc và hiệp nhất với Giáo hội.. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của
Giáo hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất
với Chúa Kitô".
Nhờ
Giáo huấn của Giáo hội và lời giảng dạy của các Thánh Giáo phụ,
các Thánh tiến sĩ và các nhà thần học, giáo dân trong khắp Giáo
hội mỗi ngày thêm vững tin tín điều Mẹ Thiên Chúa và sốt sắng
sùng mến Mẹ.
II.
LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Bên Đông phương, lễ Mẹ Thiên Chúa được mừng đầu tiên tại Giêrusalem
ngày 15 tháng 8, quãng năm 428, rồi lan sang Armenia và Gethsemania
năm 458. Giáo hội Byzantin mừng vào ngày 26 tháng 12, và Giáo
hội Coptic mừng vào ngày 16 tháng Giêng.
Bên Tây phương, tại Rôma, thoạt tiên lễ Giáng sinh cũng là lễ
Đức Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, vì khi hạ sinh Con Thiên Chúa trong
xác thể, Đức Trinh Nữ cộng tác vào việc Thiên Chúa sinh ra Con
Một Người từ muôn thuở. Bởi vậy thế kỷ XII, lễ Giáng sinh ban
ngày được mừng trọng thể tại đền thờ Đức Bà Cả ở Rôma. Theo Dom
Botte, khoảng từ năm 600, lễ Đức Mẹ đầu tiên chính thức trong
Phụng vụ Rôma là lễ ngày mồng một tháng Giêng là ngày tuần tám
lễ Giáng sinh, nên Đức Bênêđictô XIV ấn định mừng lễ Chúa Giêsu
chịu phép cắt bì. Và lễ Đức Mẹ được dời vào tháng Tám. Nhiều nơi
mừng vào Chúa nhật IV mùa Vọng hay ngày 18 tháng 12.
Thế
kỷ VII, Giáo hội Tây Ban Nha theo sắc lệnh Công đồng Toleđô năm
656 mừng lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 18 tháng 12 trước lễ Giáng sinh
tám ngày. Giáo hội Milan mừng Mẹ Maria chịu thai trinh vẹn vào
ngày thứ tư bốn mùa tháng 12. Năm 1751, tại Bồ Đào Nha, lễ Mẹ
Thiên Chúa được Đức Bênêđictô XIV ban phép mừng vào Chúa nhật
thứ nhất tháng 5. Năm 1914, nhiều giáo phận và nhiều dòng tu được
mừng vào ngày 11 tháng 10.
Năm 1931, để kỷ niệm 15 thế kỷ Công đồng Êphêsô tuyên tín Mẹ Maria
là Mẹ Thiên Chúa, Đức Piô XI ban hành thông điệp "Lux Veritatis"
diễn giải tín lý Nhập Thể, do đó Đức Trinh Nữ Maria trở nên Mẹ
Thiên Chúa. Đức Piô XI còn truyền dạy mừng lễ Mẹ Thiên Chúa trong
khắp Giáo hội vào ngày 11 tháng 10.
Năm
1962, Đức Gioan XXIII khai mạc Công đồng Vatican II vào chính
lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 để trao phó công cuộc đại sự
này trong tay Thiên Mẫu vạn năng của Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ
Giáo hội. Trước năm 1969 ngày mồng một tháng Giêng kính Chúa Giêsu
chịu phép cắt bì. Năm 1969 trong chiều hướng canh tân Phụng vụ,
Đức Phaolô VI đã đổi lễ Mẹ Thiên Chúa sang ngày 1 tháng Giêng.
III.
Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
Đức Phaolô VI đặt lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày mồng một tháng Giêng
đầu năm dương lịch, để tôn vinh Mẹ là Nữ Vương thời gian, cũng
như Đức Piô XII đã đặt lễ Mẹ Nữ Vương vào ngày 22 tháng 8 để tôn
vinh Mẹ là Nữ Vương không gian.
* Về không gian, Mẹ Maria là ngôi sao sáng soi khắp vũ trụ, làm
bừng sáng các tầng trời và chiếu toả các âm phủ (Thánh Bênađô),
vì Mẹ cao sang giáp giới tuyến vô biên Thiên Chúa (Thánh Tôma).
Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được tham dự quyền thống trị với Chúa. Là
Mẹ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Mẹ được thông phần vương quyền của Người
để được tôn phong là Nữ Vương vũ trụ. Mẹ hấp thụ tất cả các ơn
Chúa. Ân sủng không nhỏ giọt trên Mẹ, nhưng trào đổ trên Mẹ như
một trận mưa dạt dào (Thánh Tôma). Do đó, Mẹ Maria thật là Nữ
Vương không gian.
* Về thời gian, Vương quyền của Mẹ Maria đã có trong thánh lệnh
muôn đời của Thiên Chúa trước khi đất trời được tạo thành (xem
Cn 8:22-29). Trong thời gian, Vương quyền của Mẹ bừng sáng ngay
từ thuở ban sơ, qua lời Thiên Chúa tuyên án con Rắn già hoả ngục:
"Người Nữ sẽ đạp giập nát đầu mày" (St 3:15). Qua các
thời đại, Mẹ vẫn giao chiến chống lại các bè rối, và Mẹ sẽ chiến
thắng con Rồng đỏ trong ngày thế mạt (xem Kh 12:1-17). Vương quyền
Mẹ sẽ kéo dài vô cùng tận, vì là Mẹ Chúa Kitô, Mẹ được tham dự
vương quyền vô tận của Ngài (Lc 1:33) và tham dự thế lực cầu bầu
của Ngài . Do đó, Mẹ Maria thật là Nữ Vương thời gian.
Thiên Chúa hằng hữu vô biên siêu thời gian. Ngài nâng Mẹ Maria
là một thụ tạo hữu hạn lên, thông ban ưu phẩm siêu thời gian của
Ngài để đem thánh lệnh cứu rỗi muôn thuở của Ngài vào thời gian,
và do đó, đem Chúa Ngôi Hai hằng hữu siêu thời gian vào thời gian.
Thiên Chúa thông ban cho Mẹ ưu phẩm siêu thời gian của Ngài, cho
Mẹ được thông phần bản tính phong phú của Ngài, để Mẹ trở nên
Mẹ Chúa Kitô, được thông phần bản tính tình yêu của Ngài và trở
nên Mẹ các chi thể Chúa Kitô là chính chúng ta (Đức GM Bossuet).
Mẹ Maria được Thiên Chúa vô biên ban cho chức phẩm Thiên Mẫu hầu
như vô biên, để Mẹ kéo thiên tính vô biên xuống kết hợp với nhân
tính hữu hạn. Mẹ trao nhân tính cho Chúa Ngôi Hai siêu thời gian
để Người trở thành Con của Mẹ trong thời gian, và để Người thông
ban cho Mẹ ưu phẩm siêu thời gian của Người. Thánh Tôma nói: "Vì
là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Maria được chức phẩm như vô cùng do sự kiện
Chúa là Thiên Chúa vô biên".
Được
tham dự vào ưu phẩm siêu thời gian của Thiên Chúa, Mẹ Maria đã
đưa Chúa Ngôi Hai siêu thời gian vào thời gian là Chúa Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta, để Người cứu chuộc chúng ta, làm cho chúng ta được
thông phần ưu phẩm siêu thời gian của Người, được trở nên con
cái Thiên Chúa, trở nên em Chúa Giêsu và trở nên con của Mẹ.
Lạy Mẹ Maria yêu dấu! Phẩm chức Thiên Mẫu của Mẹ thật cao quí
vì là do tác động của tình yêu: Tình yêu vô biên của Thiên Chúa
đã tiền định Mẹ là Mẹ Người, một chức phẩm rất mực cao sang. Thánh
Bonaventura nói "Chức phẩm Mẹ Thiên Chúa là một ơn lớn lao
nhất được ban cho một thụ tạo. Thiên Chúa có thể dựng nên một
thế giới lớn hơn, một thiên đàng lớn hơn, nhưng không thể nâng
một thụ tạo cao hơn Mẹ Người". Tình yêu nồng cháy của Chúa
Thánh Linh đã làm cho Chúa Ngôi Hai hiện hoá hữu hình trở nên
Con của Mẹ để yêu mến và được mến yêu. Tình yêu đặc biệt của Chúa
Con đối với Mẹ là tình yêu thảo hiền từ muôn thuở và sẽ vô cùng
tận: Chúa Giêsu luôn luôn là Con của Mẹ, và Mẹ mãi mãi là Mẹ của
Chúa. Tình yêu duy nhất của Mẹ qua lời "tuân vâng" đã
khiến Mẹ lãnh nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế và Mẹ loài người chúng
con. Do đó, Mẹ yêu mến Chúa và yêu thương chúng con với tấm lòng
Hiền Mẫu luôn luôn nồng thắm dịu êm và đậm đà, và khuyến khích
chúng con phải hết tình thiết tha ngoan thảo yêu mến Chúa và Mẹ.
Chức
phẩm Thiên Mẫu của Mẹ quả thật do tình yêu, vì tình yêu, và cho
tình yêu, từ các tầng trời xuống khắp trái đất, từ muôn thuở tới
muôn thế hệ. Do vậy, Mẹ rất xứng đáng được tuyên phong là Nữ Vương
không gian và thời gian.
Trong bài giảng khai mạc ba năm chuẩn bị Đại Năm Thánh 2000, Đức
Gioan Phaolô II nói: "Khi làm người, Con Thiên Chúa, Ngôi
Lời đồng bản thể với Chúa Cha, đã nhận lấy thời gian của chúng
ta trong mọi chiều kích và Ngài hướng thời gian về vĩnh cửu. Thực
vậy, vĩnh cửu là chiều kích của Thiên Chúa. Khi nhập thể làm người,
Con Thiên Chúa cũng chấp nhận trọn vẹn thời gian của nhân loại,
với nhân tính của Ngài, để dẫn con người qua mọi chiều kích của
thời gian này hướng về vĩnh cửu, và cho con người được tham dự
vào cuộc sống thần linh vốn là gia sản đích thực của Chúa Cha,
Chúa Con, và Thánh Linh".
IV.
Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Dân số 6:22-27.
Sách này được chọn làm Bài đọc I lễ Mẹ Thiên Chúa vì hai lý do:
1. a) Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta được ba lời chúc lành của
Chúa Cha (Ds 24, 25, 26);
b)
Chúa Con phản ảnh vinh quang Chúa Cha (Dt 1:3);
c)
Thánh Linh tỏ ra Chúa Con và chương trình muôn đời của Thiên Chúa
(Ga 14:26; 15:26-27; 16:13-15).
2.
Lễ Mẹ Thiên Chúa trùng ngày đầu năm. Người ta chúc mừng nhau mọi
phúc lành.
Bài đọc II: Galata 4:4-7.
Thánh Phaolô trực tiếp nói về Đức Mẹ Maria. Câu 4: "Con Thiên
Chúa được sai đến và sinh bởi người nữ" lược tóm lịch sử
Cứu rỗi. Lý do là:
1. Để cứu chuộc những người ở dưới Luật, Con Thiên Chúa cho ta
được quyền nghĩa tử của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa sai Thánh Linh Con Chúa đến trong lòng chúng ta,
để chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta không còn
là nô lệ, nhưng là con, là thừa kế của Người. Thánh Phaolô cho
chúng ta thấy rõ chương trình Cứu rỗi của Chúa nhờ Mẹ Maria là
Mẹ Đấng Cứu Thế.
Phúc âm: Luca 2:16-21.
Phúc âm trình chiếu cảnh Bêlem trong đêm Giáng sinh để cho thấy
Đức Maria là Mẹ Đức Kitô là Thiên Chúa: Được các thiên thần hiện
ra loan báo tin mừng Chúa Giáng sinh, các mục đồng hối hả đi tìm
gặp Maria và Giuse cùng Hài Nhi nằm trong máng cỏ (2:16). Các
mục đồng được loan áo tin mừng đầu tiên vì họ là hạng người hèn
kém trong xã hội Do thái thời đó, nhưng tâm hồn họ đơn thật an
vui. Họ đã đến, đã gặp gỡ Chúa Hài Nhi, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.
Họ hiểu được lời thiên thần loan báo. Họ đã loan báo tin mừng
cho mọi người và vui mừng tôn vinh Thiên Chúa vì mọi điều họ đã
được mắt thấy tai nghe (2:17-21).
L.m.
Phêrô, CMC
TẠI SAO LẠI ‘MẸ THIÊN CHÚA’?
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Đặt ra câu hỏi này cho chính mình, tôi không có ý đi vào cuộc tranh luận thần học hay tín lý đâu, đơn giản là vì tôi luôn bị ám ảnh bởi câu khảng định của đức Giêsu khi có người lên tiếng ca ngợi địa vị dành cho kẻ được diễm phúc làm mẹ của Người: “Đúng ra phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11, 27-28). Và tôi vẫn hay đặt câu hỏi: tại sao lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa lại quan trọng hơn cả thiên chức làm mẹ Thiên Chúa? Giữa hai điều này có gì liên quan với nhau, hay chỉ là lối nói cho văn vẻ vậy thôi?
Lời Chúa trong bài Tin Mừng mời gọi tôi chiêm ngắm trở lại cảnh hang Bêlem, quá đơn sơ nghèo nàn, nhưng có điều gì đó cần được suy gẫm sâu hơn nữa. Mẹ Maria đã chẳng, trong suốt những ngày này, chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng những điều đang xảy ra xem nó có ý nghĩa gì: “Đến nơi, các mục đồng gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Tôi nhận ra: cái diễm phúc lớn hơn hết của người đã được đặc ân cưu mang trong dạ chín tháng, sinh hạ, rồi ôm ẵm trên tay, cho bú mớm và nuôi dưỡng Hài Nhị bé nhỏ chính là được diễm phúc gần gũi, được chạm tới, được chiêm ngắm sát sao hơn ai hết một Thiên Chúa làm người để cứu độ, một Thiên Chúa đang tỏ hiện lòng từ bi thương xót Người cách quá cụ thể và độc đáo. Không trách gì Maria đã “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Khi đề cập tới ‘nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’, Đức Giêsu thật sự muốn nói tới điều gì, đặc biệt hạn từ ‘lời Thiên Chúa’? Phải chăng đó là nghe và tuân giữ các điều Người giảng dạy hay các giới luật Người ban như luật yêu thương rất cao đẹp chẳng hạn? Không hẳn thế! Lời Thiên Chúa là toàn bộ sự hiện diện của Giêsu nơi dương thế, từ Bêlem trong hình hài trẻ sơ sinh cho đến cái chết nhuốc khổ trên thập giá, Lời đó chỉ nói lên một điều duy nhất: Thiên Chúa xót thương và cứu chuộc con người. Rõ ràng Maria ngay từ đầu đã để tâm ‘lắng nghe’ điều đó, trước, trong và sau các diễn biến đang xảy ra tại Bêlem, và còn tiếp tục mãi cho tới chân thập giá. Người đã lắng nghe và đón nhận cách chăm chú, với tâm hồn bén nhạy của một phụ nữ, với phong cách một người mẹ; nghe với tất cả tâm trí tới độ có thể cất lên khi có dịp: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa , Đấng cứu độ tôi… Người đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn…” (Lc 1, 46-4) Maria đồng thời cũng ‘tuân giữ lời’ qua việc đón nhận cách trọn vẹn và tham gia cách tích cực vào việc Thiên Chúa thực hiện lòng thương xót cứu độ của Ngài. ‘Lắng nghe’ nào sâu xa cho bằng để cả tâm trì và cõi lòng mình nhảy mừng khi tình yêu cứu độ xuất hiện, và ‘tuân giữ’ nào trọn vẹn cho bằng để lòng dạ mình cưu mang và trọn đời cộng tác vào chương trình xót thương cứu độ cho tới tận chân thập giá? Maria đã thi hành được điều này và làm cách xuất sắc hơn hết thảy mọi người. Chính vì thế khi nhắc nhở: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? -Đó là những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 31-35), Đức Giêsu chắc hẳn muốn ám chỉ điều này chứ không gì khác. Theo lối suy nghĩ tự nhiên, được làm Mẹ Thiên Chúa quả là một địa vị, một đặc ân vĩ đại; nhưng riêng với Đức Giêsu, thì tư thế của một người trước Tin Mừng cứu độ mới là điều có giá trị thực sự. Và hình như qua khảng định đó, Người cũng muốn mở rộng và mời gọi mọi Ki-tô hữu tham gia vào cái ‘vinh dự cao cả’ đó thì phải. Như Maria, sự thánh thiện và vĩ đại nhất thật quá đơn giản: chỉ cần biết ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ của lòng thương xót, và đem đời mình dìm sâu vào trong tình yêu cứu độ đó mà thôi.
Các hội viên của Dòng Don Bosco có cái tham vọng là muốn biến mình trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình thương của Chúa đến cho thanh thiếu niên’. Rõ ràng nhà dòng muốn họ trở thành ‘mẹ’ của các trẻ bị bỏ rơi, đồng thời cũng trở thành mẹ của Thiên Chúa nữa, theo cùng nội dung ‘mẹ’ mà Đức Giêsu nói tới. Có lẽ vì vậy mà nhà dòng muốn họ được Maria cùng đồng hành trong ơn gọi chăng, không phải chỉ vì các trợ giúp đỡ nâng bên ngoài, mà nhất là trong nội dung của chính ơn gọi họ. Và nếu tôi không lầm thì đức Giêsu muốn mọi Kitô hữu cùng tham gia vào chức phận ‘mẹ’ của Người như vậy. Phải chăng đó cũng là ‘ý đồ’ của Người khi trao Gioan - môn đệ yêu cho Maria đang đắm chìm trong hiến tế của thập giá cứu độ. “Thưa bà, đây là con của bà… Đây là mẹ của anh!” (Ga 19, 26-27)?
Lạy Maria Mẹ Thiên Chúa, xin hãy giúp con, như Mẹ, biết ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ đầy từ nhân. Xin cho con, khi mừng kính Mẹ dưới danh hiệu cao đẹp này, cũng được tham gia vào nghĩa vụ trở thành ‘mẹ của Đức Ki-tô’ cho những người chưa được biết tới tình yêu cứu cứu độ đầy xót thương của Thiên Chúa. Cũng xin Mẹ Thiên Chúa giúp con luôn trung thành với ơn gọi Ki-tô hữu rất cao quí mà Mẹ là người đầu tiên đã thực thi được cách trọn vẹn nhất. Chính vì điều này mà con chạy đến với Mẹ và tôn sùng yêu mến Mẹ. Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB 2013
|
|