21. DÂNG CHÚA TRONG ĐỀN THỜ
Đã
tới ngày một bà mẹ sinh con trai đầu lòng phải lên Đền Thờ,
theo luật Maisen, để thi hành thủ tục thanh tẩy và dâng
con mình cho Chúa. Đức Trinh Nữ Rất Thánh hoàn toàn không
buộc
phải tuân giữ quy luật đó. Mẹ là Đấng hoàn toàn thanh sạch.
Nhưng vì đức khiêm nhượng luôn luôn hạ thấp Mẹ xuống tới
bụi đất, nên Mẹ tình nguyện tùng phục lề luật. Còn Con
của Mẹ lại chẳng vượt cao trên lề luật ư? Nhưng Mẹ nhìn thấy
rõ thánh ý của Con Mẹ cũng muốn dâng mình cho Cha hằng
hữu
làm một lễ vật sống động, nên Đôi Bạn Thánh định ngày lên
Giêrusalem.
Mẹ
Maria và Thánh Giuse từ giã phụ nữ đạo hạnh đã cho Thánh
Gia trú nhờ, và tặng cho bà một phần số vàng dành để giúp
người nghèo. Bà ta được đầy những chúc phúc từ trời cao.
Trước khi
lên đường, Đức Nữ Trinh và Thánh Cả đã ra thăm lại hang
đá
một lần cuối cùng. Mẹ đã sấp mình xuống tận đất tôn kính
nơi được chúc phúc đó, nơi từng chứng kiến biết bao việc
lạ lùng.
Mẹ xin Thánh Giuse ban phép lành và cho phép Mẹ được đi
chân không lên Đền Thánh; nhưng Thánh Cả không cho Mẹ được
khổ
chế quá mức như vậy. Mẹ rước lấy Chúa Hài Nhi từ tay
Thánh Giuse,
cẩn thận quấn khăn ủ ấm cho Chúa và cầu xin Chúa gìn giữ
hang thánh ấy để các giáo hữu sau này đến kính viếng.
Đôi Bạn Thánh
xin Chúa ban phép lành. Chúa giơ tay rõ ràng chúc phúc
cho cha mẹ Ngài.
Belem
cách Giêrusalem hai dặm. Trên con đường đó, bấy giờ diễn
ra một cuộc rước vĩ đại chưa từng có bao giờ. Mười
ngàn thiên
thần dự vào các mầu nhiệm ở hang đá cùng với rất đông
thiên thần từ trời đem danh hiệu Giêsu xuống trước đó, hiện
ra
hình người tháp tùng Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Cả
Giuse. Ánh
sáng của họ giãi ra che kín ánh mặt trời. Họ vừa đi vừa
hát lên nhiều khúc tân ca chúc mừng Chúa Cứu Thế đi dâng
mình
trong Đền Thờ.
Khí
hậu rất giá rét. Chúa Giêsu là người thật, nên run rẩy và
khóc trên tay Mẹ Maria đang như chết đi vì thương
cảm.
Mẹ ra uy với tiết lạnh mùa đông đang hành hạ Đấng Cứu
Chuộc, truyền
cho chúng phải tôn trọng Ngài, nhưng cứ hắt khí lạnh
vào Mẹ. Bỗng dưng, không khí rét mướt đổi lên một bầu
khí quang
đãng
ấm áp quanh Chúa Giêsu. Nhất là Mẹ ra uy với tội lỗi,
vì nó đã tạo ra hết mọi tai nạn làm thế gian phải đau
khổ.
Mẹ quở
mắng tội lỗi: "Cái
quái vật khủng khiếp kia, lúc nào cũng phản loạn chống Thiên
Chúa, lúc nào cũng là kẻ thù của loài người! Mày đã làm cho
loài người nên tồi tàn, làm họ mất hạnh phúc đời đời! Hỡi loài
người hay chết, và yêu thích sự dối trá và hư ảo cho đến bao
giờ? Thôi, đừng bội bạc với Chúa Tối Cao nữa! Đừng tàn ác với
chính mình nữa! Chớ coi thường những lời đe doạ của Cha và
những chỉ bảo của Mẹ muốn chịu hết mọi đau khổ từ Adong sa
ngã, để cứu rỗi các con".
Trong
khi Thánh Gia còn trên đường, thượng tế Simeon và nữ tiên
tri Anna được ơn soi sáng cho biết Thánh
Gia sắp
tới
Đền Thờ. Hai vị đó sai viên quản lý Đền Thờ đi đón
và đưa Thánh
Gia vào trọ tại nhà ông ta. Chiều hôm ấy, Thánh Giuse
kín đáo mang những lễ vật của Đạo sĩ vào Đền Thờ.
Khi trở về,
Ngài
mua mấy con chim gáy dành cho lễ nghi hôm sau. Chính
Mẹ Maria đã muốn như vậy. Đêm hôm đó, Mẹ thức suốt
trong những
cuộc
đàm đạo với trời cao: "Lạy
Cha của Chúa con, con sắp sửa dâng Chúa của con cho Cha làm
Hi Lễ, để xin Cha thương đến loài người. Khi Cha ban Người
cho con, Người là Thiên Chúa. Lúc con ra khỏi Đền Thờ, con
nghèo nàn, nhưng bây giờ trở lại Đền thờ, con nên giầu sang
vì có Chúa của con. Con ca tụng Chúa đời đời vì Chúa đã xử
đại lượng với con".
Sáng
hôm sau, Thánh Gia lên Đền Thờ, cũng với đoàn tháp tùng theo
lên từ Belem. Mẹ Maria quỳ xuống nơi
các phụ
nữ quen
đứng khi đến chịu thanh tẩy và dâng con mình. Chúa
Ba Ngôi hiện
ra với Mẹ trong trí. Mẹ nghe Chúa nói những lời
này: "Đây
là Con rất yêu dấu của Ta, Ta chỉ hài lòng nơi Ngài". Thánh Giuse, một người hạnh phúc nhất trong nam giới, cảm thấy một ơn thúc
bách mới, Chúa Thánh Thần ban xuống những ánh sáng
và hân hoan đầy ngập lòng Ngài.
Đêm
trước, thánh Simeon và thánh nữ tiên tri Anna cũng tiếp nhận
được những mạc khải mới và chính
xác về những
mầu nhiệm
Nhập Thể và Cứu Chuộc dưới ơn soi sáng của Thiên
Chúa, lúc đó, hai vị vào Đền Thờ, kinh ngạc khi
nhìn thấy
Chúa Hài
Nhi và Mẹ Ngài toả rực ánh vinh quang, nhưng
hai ánh sáng ấy không
bằng nhau: Ánh của Con khác hẳn ánh của Mẹ. Thấm
nhuần một an ủi từ trời ban, hai vị đến gặp Chúa
Hài Nhi
và Mẹ. Thượng
tế Simeon xin Mẹ cho ẵm Chúa. Ông ngước mắt lên
trời, bồng Chúa Hài Nhi cao lên dâng cho Cha
hằng hữu;
ông nguyện
xin: "Giờ
đây, lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa được chết bằng an, vì mắt
con đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc mà Chúa đã hứa ban cho
chúng con, Đấng Cứu Chuộc mà Chúa định tỏ cho mọi dân tộc,
để làm ánh sáng soi cho các dân ngoại và vinh hạnh cho Israel
dân riêng Chúa chọn". Ông chúc lành cho Mẹ Maria và Thánh Giuse. Đôi Bạn Thánh tán tụng Thánh Linh
đã ban ơn lạ cho ông. Ông lại nói với Mẹ: "Đức Nữ nên biết rằng Người Con của Đức Nữ đã được tôn lên để người Israel một
số lớn phải điêu đứng, một số lớn được phục hồi, Ngài sẽ là
biểu hiệu gây mâu thuẫn. Và tâm hồn Đức Nữ sẽ bị một lưỡi gươm
đau khổ xuyên qua".
Lúc
ông nói những lời ấy, Hài Nhi Giêsu cúi đầu tỏ dấu thuận
vâng thánh ý Cha Ngài, và Mẹ Maria
cảm
thấy trong
lòng lưỡi
gươm hành hạ Con Chí Thánh mình. Từ đó, cứ
hễ nhìn thấy Con là lòng Mẹ lại nhức nhối thêm một
nỗi
cảm thương
không bờ
bến, không lúc nào ngừng. Chúa lại ban ơn cho
Thánh Cả Giuse để
Ngài biết lời tiên tri ấy, nhưng không rõ ràng
bằng Mẹ Maria. Sau cùng, bà tiên tri Anna cũng
được Thánh
Linh
soi sáng,
nên nhận ra Hài Nhi Giêsu là Ngôi Lời Nhập
Thể làm Người. Bà nói
lên nhiều mầu nhiệm về ơn Cứu Chuộc cho tất
cả những ai đợi chờ Ngài đến được nghe.
Khi
mọi nghi lễ đã xong, Đức Trinh Nữ hôn tay thượng tế cũng
như bà Anna là bà giáo cũ của
Mẹ, và xin
hai vị chúc
lành.
Rồi Mẹ trở về nhà trọ cũng với đoàn tháp
tùng là mười bốn ngàn thiên thần trước. Trong những
ngày
lưu lại
Giêrusalem, Mẹ cũng
đã đến đàm đạo với thượng tế Simeon và nữ
tiên tri Anna nhiều lần. Tuy Mẹ nói ít, nhưng lời
nào cũng
sâu ý nhiệm
mầu, khiến
hai vị vừa bỡ ngỡ thán phục vừa được an ủi
rất nhiều. Những
cuộc đàm đạo ấy đã thêm uỷ lạo cho hai vị,
khi họ từ trần ít lâu sau.
LỜI
MẸ HUẤN DỤ
Hỡi
con, một trong những nỗi khổ thống gây ra tai hoạ hoặc giảm
bớt hạnh phúc cho
các linh
hồn, đó
là thực
hành nhân
đức một cách trễ nải ươn lười. Chỉ vì
tật nguội lạnh hèn nhát đó
mà có ít người tới được chỗ thân ái hoàn
toàn với Chúa, tình thân ái mà người
ta chỉ nối
kết được
nhờ tình
yêu nhiệt liệt.
Tình yêu nhiệt liệt là tình yêu tương
tự như nước sôi nhờ sức lửa. Nó nâng cao linh
hồn
lên trên
chính mình
và trên
tất cả
mọi thụ tạo. Lúc đó, càng yêu mến linh
hồn càng cháy lên, càng không no thoả trong việc
làm đẹp
lòng Thiên
Chúa,
và hao tổn
thân mình để phụng sự Ngài cho tới khi
biến hoá hẳn vào Ngài.
Nhưng
thương thay! Trái tim con người nhu nhược biết bao, không
mấy chịu được những
gì ngược
với những
xu hướng trần
tục của
nó! Nó chống lại đau khổ và nhận chịu
một cách bất nhẫn biết chừng nào! Nó quên mất
rằng Thầy
Chí Thánh
của nó
đã là người
đầu tiên chịu khổ, Ngài đã tôn trọng
và thánh hoá đau khổ trong chính mình Ngài!
Ngài mà
còn chịu
đau khổ
như vậy,
con người
coi đau khổ là cái gớm ghét, lại chẳng
phải xấu hổ lắm ư?
Hỡi
con, con không thể theo Chúa Giêsu được, nếu con không ôm
lấy thánh giá
với Ngài và
không làm
vui lòng
Ngài trong
thánh giá ấy! Cho rằng các thụ tạo
bỏ rơi con, cho rằng các chước cám
dỗ xông
đánh
con, cho
rằng các
đau khổ
chết chóc
vây bọc con đi nữa, cũng chẳng có
gì làm con phải xao xuyến thất vọng. Con
hãy cứ
tin tưởng
vào ơn
Chúa phù
trợ và
vào tình Mẹ săn sóc cho con. Con
hãy kêu lên: Chúa nâng đỡ tôi,
tôi còn nao núng nỗi gì? Tôi còn
có một người Mẹ bao bọc tôi luôn nữa mà!
Như
vậy con sẽ duy trì được sự bằng an tâm hồn, như Mẹ đã duy
trì khi
lời tiên
tri của
thượng
tế Simeon
xuyên
thấu
tâm hồn
Mẹ.