24. THỬ THÁCH MỚI TẠI NAXARÉT
Khi
Thánh Gia đã lưu ngụ tại Ai cập tới năm thứ bảy, như thánh
Matthêu đã thuật lại trong Phúc âm, một hôm sứ thần đến báo
tin cho Thánh Giuse đem Mẹ và Chúa Giêsu về Naxarét. Thánh
Cả nói lại cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria, mặc dầu Chúa và Mẹ
đã biết trước thánh ý Cha trên trời rồi. Là gia trưởng, chính
Thánh Cả có nhiệm vụ phải thi hành lệnh ấy, để dạy cho loài
người biết: tất cả đều phải được cai quản theo trật tự tự
nhiên Chúa Quan Phòng đã lập.
Trước
khi lên đường, một cuộc lên đường gây rất nhiều đau đớn cho
những người quen biết Thánh Gia, Chúa Giêsu phân
chia cho
người nghèo tất cả dụng cụ đã dùng; còn căn nhà đơn nghèo đã
có mấy người đạo hạnh vui lòng nhận ở. Những người ấy cứ nhớ
rằng mình được ở ngôi nhà mà ba người ngoại quốc thánh đức
đã ở, là họ được vui mừng hạnh phúc. Họ đều được ánh sáng siêu
nhiên soi cho đi mãi trong đường lành, và sau này đã được vinh
phúc trên trời.
Thánh
Gia ra khỏi Hêliôpôli để trở về Palestina. Người quen thuộc,
kẻ nghèo khó đều đến vây kín lối đi. Nếu không có ơn
trên giúp thật khó đi được. Mẹ ngồi trên lưng một con lừa,
đặt Chúa Giêsu trên gối mình. Thánh Giuse đi bộ bên cạnh hai
Mẹ Con. Tất nhiên có rất đông thiên thần hộ tống như lúc từ
Palestina sang lần trước. Khi đi qua những nơi có dân cư ở
Ai Cập, trước khi vào sa mạc, Thánh Gia đã để lại nhiều vết
tích đức ái: nhiều việc lạ lùng xảy ra, từ trước đến bấy giờ
chưa hề có. Cho nên những bệnh nhân, những người tàn tật, những
người nghèo khó, đau khổ, đua nhau đến xin trợ giúp. Thánh
Gia cứu giúp mọi người cả phần hồn phần xác. Tới khi vào sa
mạc Thánh Gia lại gặp nhiều bất tiện như lần trước. Lúc thiếu
lương ăn, có khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho một mẩu bánh nhỏ
còn lại hoá ra nhiều, đủ dùng cho ba người; có khi Ngài ra
lệnh cho các thiên thần đem đến, nếu cần kíp quá mà không còn
đồ ăn.
Khi
vào tới biên giới Palestina, Thánh Cả Giuse nghe nói vua Arkêlau
lên kế vị Hêrôđê cai trị xứ Giuđêa. Vốn tính cẩn thận,
Ngài ngần ngại không dám đi nữa, một Sứ Thần phải đến báo mộng
cho Ngài cứ đưa Thánh Gia về Naxarét, như thánh Matthêu đã
thuật lại, Ngài mới dám đi. Nhưng Ngài không đi vào địa hạt
xứ Giuđêa, mà đi qua phần đất của chi tộc Đan và Issaka, dọc
theo phía bờ Địa Trung hải, bỏ Giêrusalem về phía tay mặt,
mà vào nam bộ xứ Galilê.
Sau
cùng, Thánh Gia về tới Naxarét. Người phụ nữ bà con ba đời
với Thánh Giuse trước kia từng giữ nhà cho Ngài hồi Mẹ
Maria đi thăm bà Elisave, đã cẩn thận coi sóc căn nhà nghèo
nàn của Thánh Cả suốt bảy năm qua. Bà rối rít vui mừng đón
tiếp Thánh Gia. Căn nhà vẫn còn nguyên vẹn trong ngoài, đồ
vật không mất mát hay bị xê dịch. Thoạt vào thánh cung của
ơn Nhập Thể ấy, Mẹ Maria sấp mình thờ lạy và cảm tạ Thiên Chúa
đã đưa mình về. Nhưng Mẹ không ngờ tới tại đây sẽ diễn ra một
cuộc thử thách làm cho tâm hồn Mẹ phải đau tê tái.
Để
nâng Mẹ lên một bậc thánh thiện và công nghiệp cao hơn, Chúa
Giêsu không cho Mẹ xem thấy Linh Hồn Ngài nữa, sự xem
thấy từng đổ tràn ngập lòng Mẹ những nguồn vui trên trời. Chúa
lại ít khi ở bên Mẹ, còn tỏ ra bộ mặt nghiêm nghị, hoạ huần
mới nói với Mẹ một câu, mà lại nói với một giọng cao kỳ cứng
cỏi. Vẻ nghiêm nghị bất ngờ của Chúa đó thành nên lò lửa luyện
lọc vàng tình yêu của Mẹ thêm tinh ròng hơn, rực rỡ hơn. Mẹ
không hề phàn nàn vì phải mất những niềm an ủi trước, nhưng
Mẹ cứ nghĩ rằng chắc vì mình đã tỏ ra tệ bạc hoặc khườn khĩnh
cách nào đó mới xảy ra như thế. Ý tưởng đó như một mũi dùi
nhọn đâm nhói vào Trái Tim Mẹ. Trong cơn sầu não đó, Mẹ muốn
nói với Người Con chí ái của Mẹ một đôi lời, Chúa lại chỉ tỏ
ra lạnh lùng hờ hững. Nhưng nhờ có sự thận trọng nhiệm mầu
này, lửa mến yêu của Mẹ Maria bốc lên những ngọn nóng sáng
như một lò lửa khi ta đem vài giọt nước nhỏ vào.
Nhất
là Mẹ hạ mình xuống tận hư vô, tăng thêm nhiệt tâm, gấp bội
những lời than thở và trào tràn châu lệ. Mẹ nói: "Ôi
lạy Thiên Chúa của con, con chắc rằng con không giấu nổi Chúa
vết thương lòng con, Chúa thấy rồi đó. Chúa biết rồi. Nếu con
có làm phiền lòng Chúa cách nào, sao Chúa không đem tất cả
những đau khổ của đời sống tạm này gia hình cho con? Có thể
con không thể nhẫn nại được vì thấy Chúa nghiêm giận con mãi!"
Những
lời âu yếm thiết tha ấy cũng không làm cho Chúa Giêsu đổi thái
độ mà ban ân sủng ủi an xuống, nên Mẹ đến hỏi nơi
các thiên thần hầu cận Mẹ. Các vị này trả lời Mẹ: "Ôi
Nữ Vương của chúng con, tâm hồn của Mẹ rất cương nghị không
bị thua gian khổ đâu. Mẹ biết rõ hơn chúng con là Chúa ở ngay
bên cạnh người nào đau khổ cầu xin ơn Ngài giúp".
Quả
thật, Chúa Giêsu lúc ấy cũng cảm xúc vì nỗi buồn sầu Mẹ phải
chịu, và Ngài hân hoan với tình yêu Mẹ chứng tỏ. Nhưng
vì muốn làm sống động tình yêu ấy hơn nữa, nên Chúa cứ tiếp
tục tỏ ra những thái độ nghiêm nghị ơ hờ. Chẳng hạn, khi Mẹ
mời Chúa đến dùng bữa, Chúa cứ ngồi yên không nhúc nhích, hoặc
đến bàn ăn mà không ngó nhìn Mẹ, không nói với Mẹ một nửa lời.
Trong trường hợp đó, giữa nước mắt chan hoà, Mẹ tỏ ra với Chúa
nỗi đau thương tha thiết của mình, một cách hết sức khôn ngoan
đến nỗi làm cả Thiên Chúa cũng thán phục.
Tuy
nhiên, cuộc thử thách vẫn kéo dài. Từ khi thôi nôi, Chúa Giêsu
chỉ nằm ngủ trên một tấm phản với một chiếc chăn thường.
Nhưng Chúa không luôn nằm trên phản đó khi ngủ. Có lúc Ngài
chỉ ngồi dựa tay trên một cái gối. Khi Mẹ xin đổi cho Chúa
một cái giường đỡ cứng hơn, Chúa lấy giọng nghiêm thẳng mà
trả lời rằng: giường của Chúa chỉ là khổ giá, ở thế gian này
chỉ có khổ giá mới là một khoái thú. Từ đó, Mẹ Maria lại bắt
chước Chúa mà hãm mình nằm phản cứng như Chúa, và mô phỏng
Chúa trong mọi việc hãm xác khác của Chúa như vậy. Buổi chiều,
khi đến giờ đi ngủ, Mẹ phủ phục trước mặt Chúa, khóc van xin
Chúa tha thứ cho những khuyết điểm trong việc phụng sự Ngài.
Mẹ cứ nằm phục mãi thế cho tới khi Chúa mời Mẹ dậy và ban phép
lành cho, mới đứng lên. Ban sáng, Mẹ cũng làm y như thế, xin
Chúa chỉ dạy cho biết phải làm gì trong ngày. Chúa Giêsu thường
tỏ dạ hết sức hân hoan đáp lại những ước muốn đó của Mẹ. Nhưng
trong cuộc thử thách này, Chúa cứ một mực nghiêm nghị, chỉ
nói để truyền lệnh cho Mẹ lui ra thôi. Không thể
nói được nỗi đau đớn Mẹ cảm thấy vì Chúa đổi thái độ như vậy,
và không sao tả được vẻ cẩn thận Mẹ lúc xét lương tâm xem duyên
cớ việc ấy tại đâu, mà không sao tìm ra, nhưng Mẹ cũng không
thất vọng.
Cuộc
thử thách này kéo dài ba mươi ngày. Đến ngày thứ ba mươi, Mẹ
đến sấp mình xuống trước mặt Con chí thánh Mẹ, thiết tha
nói: "Ôi
Con Mẹ rất yêu dấu là kỷ vật duy nhất của linh hồn Mẹ, nếu
Mẹ đã không đem hết nhiệt tâm phải có để phụng sự Con, xin
Con thương tha cho Mẹ. Mẹ cứ nằm đây, nếu Mẹ không lại được
thấy tấm gương Linh Hồn Con nữa". Chúa Giêsu vẫn muốn chấm dứt cuộc dày vò kỳ diệu linh hồn Mẹ hơn nhiều, nên
đã hết sức dịu dàng trả lời Mẹ: "Mẹ ơi, Mẹ chỗi dậy lẹ đi!" Chúa vừa nói xong Mẹ được nâng lên, tham hưởng một thị kiến, đổi tất cả những
u buồn cay đắng Mẹ đã chịu thành những khoái thú ngọt ngào
khôn tả.
Ra
khỏi thị kiến ấy, Mẹ lại sấp mình xuống trước mặt Chúa Giêsu.
Chúa nâng Mẹ dậy mà nói: "Thưa
Mẹ, Con rất hài lòng vì nhiệt tâm của Mẹ. con sẽ ghi tạc trong
Trái Tim Mẹ giáo lý Con đến dạy cho loài người. Mẹ sẽ thực
hành giáo lý ấy như Con muốn!" Mẹ trả lời: "Con là Thầy của Mẹ, Con cứ nói đi, nữ tì của Con đang lắng tai nghe Con nói đây". Trong cuộc đàm đạo dịu dàng ấy, Mẹ khám phá ra những công việc Chúa Giêsu làm
và tất cả những vấn đề Chúa sẽ giảng dạy về sau, mà khám phá
ra cách hết sức sáng sủa.
Những
điều rất lạ lùng mẹ được tham hưởng trong tâm hồn ấy, tuy nhiên,
cũng không ngăn cản Mẹ chú tâm tới việc phục vụ
Chúa Giêsu và Thánh Giuse về phần xác. Khi dọn bữa ăn cho hai
Cha Con, Mẹ quỳ xuống hầu tiếp Chúa Giêsu. Mẹ vẫn xin Chúa
đến với Thánh Giuse lúc Thánh Cả làm việc, để Thánh Cả được
nhìn thấy Chúa mà hân hoan. Chúa vâng lời Mẹ. Càng lớn thêm
tuổi, Chúa càng giúp đỡ Thánh Cả nhiều hơn; có khi Chúa còn
làm phép lạ để giúp đỡ Thánh Cả nữa.
Trong
thời gian đó, Mẹ Maria sống những ngày rất hạnh phúc. Nhưng
hạnh phúc ấy sắp bị xáo trộn vào dịp Thánh Gia đi lễ
tại Đền Thờ Giêrusalem. Việc dự lễ này, chỉ nam giới mới buộc
phải trẩy mỗi năm ba lần vào lễ Lều Tạm, lễ Vượt Qua và lễ
Ngũ Tuần. Nữ giới và trẻ em không buộc phải đi lễ nào, nhưng
nếu họ trẩy lễ sẽ rất được hoan nghênh. Khi Mẹ hỏi Chúa xem
ý kiến Chúa thế nào về việc trẩy lễ ấy, Chúa quyết định cả
ba người sẽ đi dự lễ Vượt Qua, còn hai lễ kia một mình Thánh
Giuse đi thôi. Thế là mỗi năm vào lễ Vượt Qua, các thiên thần
lại tháp tùng Thánh Gia trẩy lễ Đền Thờ, họ hát nhiều bài ca
chúc tụng Ngôi Lời Nhập Thể. Đường từ Naxarét tới Giêrusalem
xa chừng ba mươi dặm, nhưng Thánh Gia chỉ đi bộ. Lắm lúc Chúa
Giêsu cũng mệt nhọc rã rời, mồ hôi nhễ nhãi. Mẹ Maria rất cảm
thương, vừa khóc vừa quỳ xuống lau mồ hôi trên mặt Chúa. Lúc
ấy, Chúa nói với Mẹ: "Con
rất sẵn lòng chịu những vất vả này để làm vinh danh Cha trên
trời của Con và cứu rỗi các linh hồn". Lúc đi đường, hai Mẹ Con ban ơn cải thiện rất lạ cho nhiều người, nhưng chỉ
trong âm thầm kín đáo. Hai Mẹ Con không hề rời nhau bao giờ.
Trong Đền Thờ, Mẹ Maria hân hoan khôn tả theo dõi những lời
kinh nguyện Con Mẹ dâng lên Thiên Chúa để cầu cho Mẹ và cho
cả loài người. Thiên Chúa đã ban cho Mẹ những niềm an ủi ấy
để chuẩn bị cho Mẹ chịu những đau khổ về sau. Thật vậy, trước
mặt Mẹ bấy giờ đã diễn ra tất cả những sỉ nhục, những đau khổ
Con Mẹ sẽ phải chịu trong cuộc Tử Nạn. Mẹ đã phải khóc rất
nhiều. Và Chúa Giêsu khuyến khích Mẹ dâng lên Thiên Chúa những
đau khổ mà cả hai Mẹ Con sẽ cùng phải chịu sau này. Cuộc trẩy
lễ Vượt Qua nào Chúa Giêsu cũng tập luyện cho Mẹ như vậy cả.
Năm
Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, Thánh Gia cũng trẩy lễ Vượt Qua
như các năm trước. Lễ Vượt Qua kéo dài suốt bảy ngày. Ngày
cuối cùng, khi mọi người phải ra về, Chúa Giêsu đưa Mẹ vào
một cuộc thị kiến trí năng; giác quan Mẹ không còn cảm thấy
những gì xảy ra chung quanh nữa. Còn Thánh Giuse, Chúa nâng
lên chiêm ngắm cao xa, trầm tư mặc tưởng những sự trên trời,
cứ tin chắc rằng Chúa Giêsu đi với Mẹ Maria. Trong lúc đó,
ở ngay cửa thành, Chúa lìa khỏi Cha Mẹ mà ở lại, không về.
Tại Do Thái thời đó có tục là trong cuộc kính viếng Đền Thờ
ấy, lúc ra về, nam giới đi riêng một ngả, và nữ giới cũng đi
riêng một ngả; còn trẻ con muốn đi với ai cũng được. Lúc thôi
trầm mặc, không thấy Chúa Giêsu đi với mình, Thánh Giuse nghĩ
rằng Chúa đi với Mẹ Maria, vì tin thật rằng Chúa và Mẹ không
thể rời nhau được bao giờ. Còn Mẹ, khi ra khỏi thị kiến, không
thấy Chúa Giêsu, lại nghĩ rằng Chúa tặng cho Bạn Thánh của
mình được cái vui đồng hành. Với niềm tin đó, cả hai đều bình
thản mà đi suốt một ngày đường, như thánh ký Luca đã
thuật lại. Nhưng khi tới nơi đã định gặp nhau trước để qua
đêm, Mẹ và Thánh Giuse mới chết lịm vì Chúa chẳng đi với ai
cả. Thế là lạc mất Chúa rồi. Mẹ và Thánh Cả đau đớn quá không
sao nói được nên lời, ai cũng nhận là tại lỗi mình mà lạc mất
Chúa. Đôi Bạn liền trở lại thành thánh ngay, hỏi han khắp nơi
về Chúa. Không một ai đã gặp Ngài. Mỗi lúc đau đớn một tăng
thêm, Mẹ đành hỏi thăm các thiên thần hầu cận. Các vị này trả
lời một cách lững lờ không dứt khoát, làm lòng Mẹ càng thêm
đoạn trường trăm khúc, nước mắt càng tuôn chảy chan hoà. Mẹ
tự hỏi không biết có phải là vua Arkêlau đã dò ra tung tích
Chúa mà bắt giam rồi không; có lúc lại ngờ rằng Chúa đã vào
sa mạc thăm Gioan tiền sứ của Ngài rồi. Mẹ nức nở trong lòng,
than van những lời ảo não: "Ôi Con là Tình Yêu tha thiết của Mẹ, Mẹ biết tìm Con ở đâu bây giờ? Con lại muốn
chia lìa Mẹ để Mẹ chết hay sao? Con hãy cho Mẹ biết phải làm
gì để đáng tìm được Con đi! Con đi đâu, Mẹ cũng muốn theo đến
sống ở đó, dầu là nơi rừng thiêng nước độc, dầu là nơi giáo
nhọn gươm trần, dầu là chỗ đầy đau thương khốn cực. Lúc Con
che khuất mắt Mẹ Thần Tính của Con, Mẹ còn được thấy ít là
Nhân Tính của Con. Nhưng bây giờ cả Thần Tính cả Nhân Tính
của Con, Mẹ cũng không thấy. Mẹ chỉ biết sợ hãi khóc than thôi,
Con ơi!"
Nỗi
đau khổ của Mẹ trong những ngày ấy thật cao vượt hơn hết tất
cả những khổ hình các vị tử đạo đã phải chịu. Nhưng một
điều lạ lùng là không bao giờ Mẹ mất sự bằng an trong tâm hồn,
không ngớt ca tụng Thiên Chúa và trông cậy ở Ngài. Sau ba ngày
tìm tòi uổng công, không ăn, không ngủ, không cả nghỉ ngơi,
Mẹ có ý tưởng đi vào sa mạc tìm Chúa, nhưng các thiên thần
ngăn cản lại. Mẹ liền định đi Belem, nghĩ rằng có thể Chúa
Giêsu trở lại thăm nơi sinh hạ. Các thiên thần cũng khuyên
Mẹ đừng đi. Thế là Mẹ phải quay về Giêrusalem, vừa đi vừa hỏi
thăm người ta, và tả ra hình dáng dung mạo Con mình. Trong
một phố nọ, có người đàn bà thưa lại: "Dạ,
tôi có thấy một cậu trai như bà nói đó. Hôm qua, cậu ấy đến
xin tôi làm phúc. Thật, trông thấy Cậu, lòng tôi khoái vui
khác lạ lắm". Nhiều người khác cũng nói như thế. Bấy giờ lòng Mẹ mới bớt áy náy đôi chút,
Mẹ vào một nhà tiếp rước người nghèo hỏi thăm, người ta nói
có một con trẻ hình dung như Mẹ tả lại, đã ba hôm nay, ngày
nào cũng đến đây giúp đỡ và an ủi người nghèo. Nghe vậy, nhưng
bóng Người Con yêu dấu Mẹ vẫn biệt tích. Sau cùng, Mẹ nẩy ra
ý tưởng là có lẽ Chúa ở trong Đền Thờ. Các thiên thần liền
phụ hoạ ngay vào ý tưởng đó: "Thưa Đức Nữ Vương, xin Mẹ bước gấp lên. Mẹ sắp được an ủi rồi". Một thiên thần khác vội báo tin cho Thánh Giuse đang tất tả đi tìm Chúa ở một
ngả đường khác. Ngài rất đau đớn, đến nỗi nếu Thiên Chúa không
ban thêm sức mạnh, Ngài có thể nguy đến mạng sống. Sau nhiều
ngược xuôi vất vả, Ngài gặp được Bạn Thánh mình vừa đi vừa
khóc trên đường. Cả hai cùng nhau vào Đền Thờ.
Chúa
Giêsu đang ở đó. Trong ba ngày trước, Chúa đã tự đi xin của
bố thí để độ nhật, đi an ủi người nghèo khổ, chữa lành
người bệnh tật, thánh hoá các linh hồn, nhất là những linh
hồn đã tỏ lòng bác ái với Chúa. Sau cùng, ngày thứ ba, Chúa
đến dự một cuộc hội họp của các nhà luật sĩ trong Đền Thờ.
Trong cuộc họp này, họ tranh luận về việc Đấng Cứu Thế ra đời.
Những biến cố khác thường xảy trong nước Do Thái ít lâu nay
đã tăng thêm niềm tin của dân chúng về việc Chúa Cứu Thế đã
xuất hiện, chẳng hạn việc Gioan sinh hạ, việc các Vương tước
Đạo sĩ phương Đông đến chiêm bái ở Belem hơn mười năm trước.
Nhưng các nhà tiến sĩ luật đó không đồng một quan điểm với
nhau trong việc giải thích các lời tiên tri báo trước về Chúa
Cứu Thế: lời tả Ngài dưới những nét quang vinh rực rỡ, lời
lại tả Ngài bằng những nét nhục nhã ê chề. Chúa Giêsu là Thầy
dậy muôn đời, là chính Chân lý, là chính Chúa Cứu Thế, mà thấy
họ sai lầm về chân dung của Đấng Cứu Thế như vậy, Ngài không
đành lòng để họ phải đi trong mờ tối. Ngài đem tình thương
khai quang cho thần trí họ. Khi các nhà luật sĩ đó im tiếng,
Chúa Giêsu đứng lên, với một vẻ uy nghi mĩ lệ, bắt mọi người
phải tôn kính và chú ý. Ngài nói: "Làm thế nào mà dung hoà được những lời tiên tri có vẻ trái ngược nhau đó, nếu
những lời ấy không có nghĩa là Đấng Cứu Thế phải đến hai lần?
Lần thứ nhất, Ngài đến để giải phóng cho thế gian khỏi quyền
ma quỷ thống trị, để dạy dỗ loài người, đền bồi thay cho tội
lỗi của họ, và lập một nước thiêng liêng trên khắp hoàn cầu,
chứ không phải là lập một nước trần tục. Việc người Roma thống
trị Do Thái, việc hoàn tất bảy tuần năm mà tiên tri Đanien
nói, những sự kiện lạ ở Belem, việc ba vị Vương tước Đạo sĩ
từ phương Đông đến chiêm bái ở Belem, tất cả những việc ấy
đều đã được báo trước cả; mà đến nay nó đã xảy ra. Vậy nó chẳng
chứng tỏ là Chúa Cứu Thế đã đến rồi đó ư? Còn việc Ngài đến
lần hai sẽ khác hẳn. Lần thứ nhất, Ngài đến cứu chuộc thế gian;
lần thứ hai, Ngài đến phán xét thế gian. Ngài sẽ ban thưởng
cho các bạn thân của Ngài, còn thù địch Ngài sẽ bị Ngài trừng
phạt. Lần này Ngài mới tỏ ra uy quyền lẫm liệt mà các nhà tiên
ri nói".
Chúa
nói nhiều, nói dài, với những lời trích dẫn rõ ràng từ Thánh
Kinh, khiến khi Ngài ngưng tiếng tất cả các luật sĩ đều
kinh ngạc ngồi im, không biết nói lại cách nào. Các ông chỉ
nói nhỏ hỏi nhau: "Cậu
nhỏ giỏi quá! Ồ con cái nhà ai mà một tí tuổi đã thông thạo
Thánh Kinh đến thế nhỉ? Cậu ta ở đâu đến đây vậy?"
Rồi
họ ngưng tranh luận. Chính trong lúc đó, Mẹ Maria và Thánh
Giuse trông thấy Chúa. Đôi Bạn Thánh chỉ nghe thấy có đoạn
cuối lời Chúa nói thôi. Hai Ngài đến gần Chúa, đầy kinh ngạc,
như thánh Luca đã viết. Các luật sĩ đã lần lượt im lặng bỏ
đi rồi, nên coi như chỉ còn có ba Đấng của Thánh Gia. Mẹ Maria
thốt lên: "Con
ơi! sao Con lại xử với cha mẹ như thế? Này cha Con và mẹ phải
đau đớn hết sức đi tìm Con đây". Đó là một tiếng kêu thoát mọi nỗi ưu phiền, và tràn đầy hoan lạc. Một tiếng
kêu nhuộm thắm vẻ tôn kính sâu xa nhất và tình yêu thắm thiết
nhất. Chúa Giêsu trả lời: "Cha mẹ tìm Con làm gì? Cha mẹ không biết Con phải làm việc của Cha Con sao?"
Thánh
ký Luca viết rằng Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse không hiểu được
lời nói mầu nhiệm đó. Có như vậy là vì Mẹ và Thánh Cả
đã đến quá muộn, nên không hiểu được mối liên lạc giữa lời
nói ấy với bài dài Chúa nói trước. Ngoài ra, còn vì Mẹ và Thánh
Cả được tràn ngập trong hạnh phúc tìm lại được Con mình; và
sau cùng, vì tấm màn che khuất không cho Mẹ nhìn thấy nội tâm
Con Mẹ, nội tâm mà một ít lâu sau mới được tỏ ra. Dầu vậy,
khi Mẹ được ở một mình với Chúa, Mẹ đã ẵm hôn Chúa mà nói: "Con
của Mẹ, nếu Mẹ đã lạc mất Con vì lỗi của Mẹ, xin Con tha cho
Mẹ. Rồi, xin Con từ nay đừng bắt Mẹ phải vắng mặt Con nữa". Chúa Giêsu thoả lòng nhận lời Mẹ xin, và hứa sẽ là Thầy dạy, là Bạn thiết của
Mẹ suốt trong thời gian còn lại cho tới khi Ngài tuân thánh
ý Chúa Cha. Lúc Thánh Gia đã ra khỏi Giêrusalem một quãng xa,
nơi cánh đồng vắng vẻ, Mẹ mới sấp mình xuống xin Chúa ban phép
lành cho, vì lúc còn trong thành Mẹ chưa làm việc ấy. Chúa
nâng Mẹ dậy cách nhân từ, và mở tâm hồn mình ra cho Mẹ xem.
Mẹ đã thấy tất cả những gì xảy ra trong suốt ba ngày Chúa vắng
mặt và trong cuộc đàm luận với các luật sĩ. Sau một lát nghỉ
ngơi, ăn uống chút đỉnh, Thánh Gia lại lên đường. Vừa đi, Chúa
vừa nói lại cho Mẹ nghe tất cả những gì Chúa đã nói với các
luật sĩ, điều mà Chúa vừa mới cho Mẹ nhìn thấy trong Linh Hồn
mình. Trong cuộc trở về Naxarét này, Chúa và Mẹ cũng cải thiện
một số lớn tội nhân và chữa lành nhiều người bệnh tật, theo
thói quen vẫn có khi đi đường.
Từ
đó, như thánh Luca viết, Chúa Giêsu luôn luôn tùng phục Mẹ
Maria và Thánh Cả Giuse. Thiên Chúa đã ban xuống cho Mẹ
Maria nhiều ân sủng đặc biệt, dàn dụa linh hồn Mẹ, tràn sang
cả Thánh Giuse, Người Cha Đồng Trinh của Ngôi Lời Nhập Thể,
để hai Đấng có đủ khả năng chỉ huy một Người Con cao trọng
duy nhất trong loài người. Về phía Mẹ, Mẹ đáp lại sự Chúa
tuân phục Mẹ bằng một đức khiêm nhượng, một lòng biết ơn, một
sự
mau mắn, một niềm tỉ mỉ và một tình yêu mến tế nhị làm Tâm
Hồn Chúa phải ngây ngất. Chúa có thể sẽ ban cho Mẹ tràn ngập
những khoái vui còn lớn lao hơn nữa, nếu Chúa chỉ nghe theo
có xu hướng lòng yêu vô cùng của mình. Nhưng Chúa lại không
muốn sự tràn ngập ấy ngăn cản Mẹ lập đầy những công nghiệp
Chúa đã định cho Mẹ, nên Chúa đã không tỏ cho Mẹ hết mọi
thoả nguyện như lòng Chúa mong muốn.
LỜI
MẸ HUẤN DỤ
Hỡi
con, đã phản nguỵ Thiên Chúa không còn lấy lẽ gì mà bào chữa
tội mình được. Thụ tạo chỉ phải tìm lý do để tùng
phục trong thánh ý Đấng Sáng Tạo, Đấng an bài và xếp đặt
mọi sự.
Họ không được phép phân biệt những biến cố vui lòng họ
với những biến cố không làm họ ưa thích. Thịnh vượng hay
suy
bại, giầu sang hay nghèo nàn, họ đều phải đón nhận với
một tinh
thần bình thản như nhau, không được vì may mắn mà vui
mừng hợm hĩnh, vì rủi ro mà thất vọng buồn sầu. Lúc nào, họ
cũng phải hỉ hoan trong thánh ý Chúa, không e ngại, không
ước
vọng khác đi.
Bổn
phận của thụ tạo cũng là phải tuân giữ huấn giới Chúa truyền,
một cách không hèn nhát nguội lạnh. Họ không
được
bằng lòng
với một nhân đức thông thường, chỉ đủ cần thiết; nhưng
phải chăm chỉ làm những việc vượt hơn lên, vì yêu mến
Chúa mà
thêm những việc Chúa không đòi hỏi. Lòng quảng đại
ấy sẽ làm cho
các bạn thân của Chúa nên đẹp lòng Ngài hơn nữa.
Giấu
ẩn nhan thánh Ngài đi cũng là một kỹ thuật khôn ngoan Ngài
dùng để thử xem họ có yêu mến Ngài thật
không, và
để nâng họ lên cao trong nhân đức, hạ thấp họ xuống
trong khiêm
nhượng,
in sâu vào họ niềm e ngại hữu ích, sợ lỡ ra lạc mất
Ngài, và sau cùng an ủi họ trong hân hoan khi Ngài
trở lại
với họ. Phần
họ có trách vụ phải cẩn thận xa lánh những khườn
khĩnh làm cho họ không còn được thấy Ngài nữa. Nếu không
thấy Ngài
nữa là một hình phạt rồi.
Nếu
lỡ ra đã lạc mất Chúa, họ phải đi tìm Ngài, thao thức, âu lo
cho tới khi lại tìm thấy, rồi hết sức
cẩn phòng để
tỉnh thức luôn mãi, hầu không lạc mất Ngài bao
giờ nữa.