33. TRƯỚC CỬA CÔNG ĐƯỜNG
Các
trưởng tế trói Chúa Giêsu y như trước mà giải Ngài từ dinh
Caipha đến dinh trấn thủ Philatô. Thành phố Giêrusalem bấy
giờ đầy những người từ khắp nơi trẩy đến dự đại lễ Vượt Qua.
Đâu đâu cũng ồn ào nhộn nhịp, đường phố nào cũng nườm nượp
người và người. Vô số người tò mò ra xem Chúa Giêsu bị xiềng
trói giải nộp. Kẻ la ó: "Giết
quách tên bịp đời đó đi!" Người ngơ ngác nhìn nhau mà nói: "Nhưng mà ông ấy có làm gì xấu và dậy điều gì tệ đâu?" Những ai tin Ngài đều đau lòng rơi lệ. Riêng Luxiphe lại càng giận dữ điên cuồng.
Chỗ nào cũng nhôn nhao xáo động.
Mặt
trời đã mọc lên. Mẹ Maria từ trước vẫn nhìn thấy mọi sự thể
trong Linh Hồn Chúa. Bây giờ Mẹ quyết định rời phòng
ẩn
dật, để đi ra theo Con Mẹ và ở bên Con Mẹ cho đến lúc Ngài
trút hơi thở cuối cùng. Khi vừa ra khỏi nhà tiệc ly, Mẹ gặp
ngay thánh Gioan. Ông có ý về gặp Mẹ, báo cho Mẹ biết những
biến cố thảm thê xảy ra từ đêm vừa rồi. Ông không biết là Mẹ
đã nhìn thấy tất cả trong một thị kiến đặc biệt. Ông thú nhận
với Mẹ tội đã bỏ Thầy mà chạy trốn khi ở vườn Cây Dầu. Sau
khi chào Mẹ, ông khóc lóc xin Mẹ tha thứ. Rồi sau đó, ông mới
thuật lại tất cả công việc xảy ra. Mẹ lặng lẽ nghe hết cơ sự
y như chưa biết gì, rồi mời ông đi theo Mẹ cùng với những phụ
nữ đạo đức vẫn đi với Mẹ. Mẹ nói: "Mau
lên, ta đi coi xem Con rất yêu đương của Mẹ phải cứu chuộc
loài người và mở cửa thiên đàng cho chúng với giá đắt chừng
nào". Theo lệnh Mẹ, các thiên thần đã đi giạt lối cho Mẹ tới để gặp Chúa Giêsu giữa
những đám đông ồn ào lộn xộn. Khi đi qua các phố, Mẹ được nghe
thấy tất cả những dư luận về Chúa. Chỉ có rất ít người cảm
thông với nỗi nhục nhã Chúa chịu. Rất nhiều người có một giọng
điệu mỉa mai: "Thế anh chàng bịp bợm đó để các phép lạ y làm đâu cả rồi?" Chính Mẹ cũng không khỏi bị người ta đàm tiếu. Và nếu có những người quen biết
cảm thương Mẹ một cách tự nhiên, lại có rất nhiều người khác
phê phán Mẹ một cách không thương hại: "Chà chà! Bà dậy Con khéo chưa! Sao lại để cho Con bà làm xáo động dân chúng kỳ
quặc thế?" Song thương hay chê, Mẹ vẫn thản nhiên bình tĩnh với một thái độ đầy đức ái.
Mẹ lần lượt cầu nguyện cho cả người phân ưu với Mẹ, cả người
chê bai dèm pha Mẹ.
Các
thiên thần dẫn Mẹ vượt qua một đám đông rất ô hợp đang lao
xao ở một góc phố, Mẹ gặp được Chúa Giêsu. Lập tức Mẹ sấp
mình xuống trước mặt Chúa, thờ lạy Chúa với một tâm tình tôn
kính vượt trên niềm tôn kính của hết mọi thụ tạo hợp một. Khi
Mẹ đứng dậy, hai Mẹ Con nhìn nhau rất thiết tha mà cũng đớn
đau khôn tả. Mẹ đi lùi lại sau Chúa Giêsu một chút, rồi vừa
đi theo lối Chúa vừa đem tâm hồn đàm đạo với Chúa và với Cha
hằng hữu một cách tuyệt vời, không ngôn ngữ loài người nào
có thể diễn tả đúng được. Suốt cuộc đời Mẹ, từ đó về sau, Mẹ
vẫn giữ nguyên vẹn trong đáy sâu linh hồn hỉnh ảnh Người Con
chí ái bị hành hạ, bị trăng trói, bị mất dạng bấy giờ, lúc
nào Mẹ cũng thấy hiển hiện trước mắt quang cảnh thảm khốc kinh
hoàng ấy.
Sau
cùng, Chúa Giêsu tới dinh trấn thủ, theo sau là rất nhiều nhân
viên Hội Đồng Cộng Toạ Dothái và bọn dân chúng rất đông
đảo gồm đủ mọi tầng lớp nhân dân. Tục lệ Dothái cấm hẳn không
cho vào nhà người ngoại giáo trong dịp đại lễ, nên Philatô
ra ngoài tiếp họ. Ông hỏi họ: "Người
này có tội gì mà các ông phải đem tố cáo đây?" Các trưởng tế trả lời: "Bẩm, tất nhiên y là một tên đại gian đại ác, chúng tôi mới phải phiền lòng đem
nộp y cho ngài vào một ngày đại lễ như thế này. Tội y là gây
xáo động khắp nước, tự xưng làm vua, cấm nhân dân nộp thuế
cho hoàng đế Rôma, và còn tự nhận mình là Con Thiên Chúa". Nghe nói đến Con Thiên Chúa, Philatô e ngại, vì ông ta rất mê tín, lại rất
sợ thần minh. Ông nói lảng: "À! Thế các ông cứ chiếu luật của các ông mà xét xử đi. Trong vụ liên quan đến
Chúa của các ông, bản chức chả có quyền gì để xét xử cả". Các trưởng tế xoay ngay đến vấn đề án tử: "Bẩm không, chúng tôi đâu còn quyền lên án tử ai nữa đâu".
Lúc
ấy, Mẹ Maria được các thiên thần dẫn vào. Mẹ nghe rõ tất cả
cuộc thẩm vấn ấy. Che kín mặt dưới một tấm khăn, Mẹ khóc
ra lệ máu dưới sức đau đớn mãnh liệt nghiền nát Trái Tim hiền
mẫu của Mẹ. Mẹ cầu xin Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đừng phải khuất
mặt Người Con đáng tôn thờ của Mẹ cho tới khi Người chịu chết,
và cầu cho Philatô được ơn nhìn nhận ra Chúa Giêsu là Đấng
vô tội. Nhờ lời cầu nguyện của Mẹ, Philatô đã nhận ra sự thật
một cách phân minh. Bởi đó, ông có hảo ý với Chúa Giêsu, mặc
dầu ông không tin ở Thần Tính của Ngài. Thấy thế, người Dothái
bắt đầu la ó phẫn nộ, và lại nhao nhao lên vu khống Chúa. Họ
nhấn mạnh đến lời tố cáo: Ngài là một kẻ lấn quyền. Họ kêu
gào: "Nó
tự xưng là Kitô, tức là một vị thánh vương". - Philatô bảo Chúa: "Cho bị cáo lên đối chất" Chúa không hề trả lời gì. Nhà cầm quyền đó đem Chúa vào trong dinh, hỏi riêng
Chúa: "Ông mà là vua của người Dothái à?" Hỏi thế, vì Philatô thấy trên thực tế Chúa không thể nào là một ông vua được;
nhưng ông muốn biết xem Chúa có tự nhận mình làm vua không.
Phúc Âm đã thuật lại câu trả lời rất lạ của Chúa Giêsu. - Philatô
ra ngoài dinh, nói với người Dothái: "Bản chức không thấy có lý do nào để lên án phạm nhân đó cả". Người Dothái ầm ầm kêu lên: "Sao? Không có lý do nào à? Nó giảng đạo để sách động dân chúng khắp nước, mà
lại không có lý do nào à? Nó truyền bá giáo thuyết của nó bắt
đầu từ xứ Galilê đến đây".
Nghe
nói đến Galilê, Philatô thở phào như trút được gánh nặng. Ông
cho chuyển ngay vụ rắc rối này đến cho nhà cầm quyền của
xứ đó. Nhà cầm quyền này không ai khác ngoài Hêrôđê. Ông này
bấy giờ cũng đang tạm ở Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua, vì ông
đã gia nhập đạo Dothái để cưới một thiếu nữ Dothái.
Thế
là Chúa Giêsu lại bị giải nộp cho Hêrôđê ngay bấy giờ. Ngài
vẫn bị xiềng trói y như trước. Nhiều luật sĩ và tư tế
đi theo để tố cáo Ngài; bọn lính tráng cầm dây kéo Ngài đi
qua các phố đầy ngập những con mắt tò mò. Mẹ Maria cũng đi
theo Chúa cùng với đoàn các phụ nữ đạo đức. Các thiên thần
lại can thiệp tìm cách cho Mẹ được ở bên Chúa để làm chứng
nhân nhìn rõ những sỉ nhục và đánh đập Chúa phải chịu.
Hêrôđê
hết sức hoan hỉ tiếp đón Chúa với hi vọng Chúa sẽ làm cho mấy
phép lạ coi chơi. Ông ta cũng vẫn cho Chúa chỉ là một
tay phù thuỷ. Ông ta hỏi Chúa rất nhiều câu hỏi, nhưng Chúa
cứ im lặng, không đáp lại một lời nào. Các luật sĩ và trưởng
tế có mặt ở đó lại hết lời vu khống để tố cáo, nhưng Chúa Giêsu
vẫn tuyệt đối im lặng. Áp bức cho Chúa trả lời lấy một câu
mà không được, nên Hêrôđê giấu kín sự căm tức của mình mà cười
nhạo Chúa. Bọn cận thần của ông ta cũng theo đòi gương đó mà
nhạo báng Chúa, xử với Chúa như một người điên. Họ mặc cho
Chúa một áo trắng dài, là áo mà người Dothái đương thời vẫn
mặc cho người điên, để người ta thấy mà xa tránh. Nhưng trong
dự liệu của Chúa Quan Phòng, áo đó đối với Chúa Giêsu, lại
là biểu hiệu sự vô tội hoàn toàn của Ngài.
Bọn
trưởng tế cứ để nguyên Chúa như vậy mà giải Ngài trở về dinh
trấn thủ Philatô, giữa những lớp sóng dân chúng còn náo
động ồn ào hơn nữa. Những người trước kia đã kính Chúa như
Đấng Cứu Thế, bây giờ quay lại lăng mạ Chúa, để rút lại những
niềm tôn kính trước. Thật, người làm thủ lãnh mà lầm lạc và
làm gương xấu gây tai hại cho dân chúng biết chừng nào! Giữa
đám ồn ào và nhục nhã đó, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong tâm
hồn Ngài, với một tình yêu mến, một sự khiêm nhượng và một
đức nhẫn nại khôn tả, những lời trước kia Thánh Vương Đavít
đã thốt lên: "Tôi
là con sâu bọ chứ không phải là người nữa; phàm nhân đã nhục
mạ và ruồng bỏ tôi".
Mẹ
Maria rất đau khổ không theo Chúa Giêsu vào phòng xử của Hêrôđê.
Nhưng qua một thị kiến bên trong, Mẹ đã thấy tất cả
những gì xảy ra trong đó. Khi Chúa ra khỏi điện Hêrôđê, hai
Mẹ Con lại gặp nhau và nhìn nhau với một nỗi đau đớn buốt nhói,
và một niềm cảm thông thắm thiết vô chừng. Mẹ thờ lạy Chúa
Giêsu dưới cái áo trắng dài mầu nhiệm mà Mẹ hiểu rõ ý nghĩa
tượng trưng, rồi đi theo Chúa về dinh Philatô. Dân chúng xô
đẩy nhau, hối thúc nhau ào ào, làm Chúa ngã xuống đất nhiều
lần. Bọn lính bất nhân cầm dây trói giật mạnh cách hung tàn,
nên Máu từ thân thể Chúa bắn ra. Chúa không đứng dậy dễ dàng
được, vì hai tay bị ghì chặt vào thân thể. Những người theo
sau vấp vào Chúa, giẵm lên Chúa mà đi, đạp thêm cho Chúa nhiều
đạp, giữa những tiếng cười hô hố man rợ của bọn quân lính.
Bọn này bị quỷ thúc đẩy, nên hầu như không còn chút nhân tính
nào.
Trước
cảnh tượng hung bạo tàn tệ như vậy, Mẹ Maria càng thêm đau
khổ thống thiết hơn. Mẹ ra lệnh cho các thiên thần thu
lấy Máu Chúa Giêsu chảy ra trên đường phố, để người ta khỏi
tục hoá Máu Thánh ấy. Các thiên thần cũng được lệnh Mẹ đến
xin Chúa, nếu Chúa bằng lòng, đừng chịu cho người ta giày đạp
lên Thân Thể thánh hảo của Ngài như vậy nữa. Để nài Chúa phải
ưng thuận, Mẹ nhờ các thiên thần đến xin Chúa hãy vâng lời
Mẹ, thay vào chỗ sự nhục nhã Chúa chịu. Thực ra, Chúa cũng
đã biết trước cả rồi, nhưng Ngài cứ để cho Mẹ xin như vậy,
để khỏi cản trở những toan tính khôn ngoan tự nhiên của Mẹ.
Thánh
Gioan, ba bà Maria và một số các tín hữu bấy giờ cũng âu sầu
khóc lóc thảm thiết, nhất là bà Maria Mađalêna, là một
người có nhiệt tâm hơn hết trong đám các bà ấy.
Phía
Philatô, thấy Hêrôđê không xử Chúa mà lại trao trả lại cho
mình, ông ta phân vân về sự vô tội của Chúa và mối căm
hờn của người Dothái đối với Chúa, nên ông đâm ra bối rối.
Ông bí mật cho gọi nhiều viên quan chức và thân hữu của các
vị thượng tế vào, bàn với họ sẽ trả tự do cho Chúa sau khi
đã sửa phạt Ngài qua loa, theo tục lệ Dothái là tha một tội
phạm nặng án vào dịp lễ Vượt Qua để kỷ niệm việc họ thoát cảnh
nô lệ Aicập; ông đề nghị với họ đừng tha cho tên Baraba. Nói
thế, vì trước đó, ông đã nói với họ là ông muốn giam tên đại
phạm này lại, mà tha cho Chúa Giêsu. Nhưng cuộc mật đàm đó
không kết quả.
Trong
lúc đó, phu nhân của Philatô là Prôcula sai người đến nói với
ông ta rằng: xin chớ lên án người công chính đó, vì
bà ta đã phải khổ nhiều vì Ngài trong một giấc mộng. Sở dĩ
có sự can thiệp này là vì Luxiphe không bao giờ muốn Chúa Giêsu
chịu chết để chuộc tội cho loài người. Chính y cũng dự vào
việc Philatô cản ngăn người Dothái giết Chúa. Cho nên y gieo
một giấc mộng dữ vào tưởng tượng bà vợ của ông, xúi bảy bà
can thiệp với chồng đừng lên án Chúa. Philatô rất do dự. Nhưng
rốt cuộc, những tiếng hô hoán ầm ầm đả đảo Chúa đã thắng tính
nhu nhược và hèn nhát của ông. Tuy nhiên, ông vẫn đưa ra một
đề nghị bất công là cho đánh đòn Chúa dù Người vô tội rồi sẽ
tha ra. Ông nói với người Dothái: "Bản
chức sẽ cho đánh đòn người này, rồi tha về". Người Dothái bị bọn huynh trưởng sách động, ầm ầm hô lên: "Đả đảo Giêsu Naxarét! Đem căng sống nó lên thập giá".
Mẹ
là hình ảnh sống động của Con Mẹ, nên cũng như Con Mẹ, Mẹ nghe
tất cả những tiếng gào thét man rợ đó một cách bình thản
và nhẫn nhục vô địch, mặc dầu những tiếng đó xuyên thủng Trái
Tim Mẹ. Mẹ cư xử rất thánh thiện, ồn ào đến đâu cũng không
làm Mẹ đãng trí trầm tư, buồn thảm đến đâu cũng không làm Mẹ
giảm bớt nhiệt tâm, và đau khổ đến đâu cũng không làm Mẹ suy
sút đức ái. Đức ái này, lúc đó, Mẹ đã thể hiện tới một mức
độ tuyệt vời, để nài xin Thiên Chúa nhân từ tha thứ tất cả
những tội quái ác ấy.
LỜI
MẸ HUẤN DỤ
Hỡi
con, loài người thật đáng trách vì không đem lòng tôn kính
khiêm nhượng mà suy niệm những việc Con chí thánh Mẹ đã làm,
và những mầu nhiệm chứa ẩn trong đó, để làm phương dược cứu
rỗi mọi người. Họ rất ngạc nhiên vì Con Mẹ đã vui lòng chịu
cho những vị quan toà bất công xét xử như một kẻ gian ác, một
kẻ điên dại. Đúng ra họ phải tôn kính lòng nhân từ của Ngài
mới phải. Lòng nhân từ ấy đã không hề chối bỏ một thù địch
nào của Ngài mà không ban ơn cho họ, để họ làm điều lành. Lòng
nhân từ ấy đã để lại cho mọi kẻ phàm nhân một gương sáng không
thể chối cãi về sự hoàn toàn diệt bỏ tính kiêu ngạo từng ăn
rễ trong tâm hồn họ. Ai ai cũng đi tìm danh vọng, vinh hoa,
ca tụng và ăn trên ngồi trước. Ai ai cũng bào chữa tội mình,
khoe bày đức tính mình, tự gán cho mình danh này chức nọ, y
như là không phải Thiên Chúa ban cho. Nói chung, mọi người
đều bị nhiễm nọc độc ghê gớm của rắn già. Nó càng gieo rộng
sự căm giận của nó, người ta càng khát uống nọc độc ấy. Chính
vì để trị liệu tai ách đó mà Con Chí Thánh Mẹ, với tư
cách một lương y nhân ái của các linh hồn, đã không muốn tự
biện hộ, tự minh oan và làm bẽ mặt bọn người thù nghịch Ngài.
Về
đảng Biệt phái và các tư tế, con ngạc nhiên vì họ tỏ ra hung
hãn hơn Philatô và Hêrôđê ư? Thế con không biết rằng càng
trèo cao càng ngã đau, càng lớn chức càng té sâu, càng to
quyền càng nguy hiểm hay sao? Mang chức thánh vào mà phạm tội,
cái
tội đó không thể tu sửa, hay ít nhất, thật là khó tu sửa.
Về phía loài người, căn cớ cái khó đó, là tại vì họ xấu hổ
và
rầu rĩ thái quá, nên sinh ra một thất vọng não nề, và về
phía Thiên Chúa, trên cán cân công bằng của Ngài, Ngài căn
cứ vào
bậc sống hay phẩm chức của những ai buộc phải phụng sự Ngài
hơn, mà cân tội phúc của họ. Mặc dầu xét về chất thể, tội
lỗi có bằng nhau đấy, nhưng xét về hoàn cảnh rất khác nhau.
Những
người đã được gọi lên các chức thánh, hoặc được nhiều ân
sủng hơn, sẽ đáng tội hơn những người khác, nếu họ phạm tội;
và
có thể chỉ phạm ít tội mà cũng bị loại bỏ và phải phạt, vì
phẩm tội đã bù vào lượng tội rồi.
Cho
nên, hỡi con, con hãy thận trọng. Nếu Thiên Chúa đãi ngộ con
cách nhân từ nhường ấy, Ngài cũng chẳng đảm bảo cho
con
khỏi sa ngã, mà cũng chẳng cho phép con thiếu kính sợ Ngài
đâu. Ngài càng ban cho con nhiều ân huệ, con càng phải
tỉnh thức.