40. HƯỚNG DẪN GIÁO ĐOÀN ĐẦU
TIÊN
Toàn
dân Giêrusalem đều xúc động trước những việc lạ xảy ra ở nhà
Tiệc ly. Họ ùn ùn kéo tới với một số rất đông những người
ngoại quốc từ khắp các dân lân
cận Palestina. Đầy lửa nhiệt thành thiêu đốt, các Tông đồ xin Mẹ Maria cho phép
ra giảng trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, Mẹ Maria sấp mình xuống đất, hết sức sốt
sáng cầu xin Chúa cho mọi người được ơn trở lại. Mẹ cũng sai rất nhiều thiên
thần hầu cận đem ơn soi sáng của Mẹ giúp cho cả các Tông đồ giảng thuyết, cả
những người nghe giảng.
Kết
quả thật quá lạ lùng. Các Tông đồ chỉ giảng bằng tiếng Do Thái,
thế mà thính giả ai cũng nghe ra tiếng nước mình. Phép lạ bất
ngờ ấy và sự can đảm của các
Tông đồ trước đó vẫn yếu hèn, nhất là hiệu năng ân sủng, đã kích động họ. Nhiều
người, nhất là những người từ trước vẫn ủng hộ Chúa Giêsu, đều chan hoà nước
mắt thống hối, sốt sắng xin gia nhập Giáo hội mới. Nhưng cũng có những người
không tin, nổi giận với các Tông Đồ, coi các vị là bọn lừa bịp, bọn say rượu.
Trong bọn những người chỉ trích này, có nhiều kẻ đã bị ngã gục lúc Chúa Thánh
Linh hiện xuống, đáng lẽ khi được chỗi dậy, họ phải tin và sám hối mới phải,
nhưng oái oam thay, họ lại trở nên thù địch hơn, ngoan cố hơn.
Trước
những lời thoá mạ ấy, thánh Phêrô trả lời họ cho đủ điều, rồi
ông tập họp một phần lớn những con chiên mới của Chúa Giêsu
lại, đem vào giới thiệu
với Mẹ
Maria, dầu Mẹ đã biết tất cả những gì vừa xảy ra. Ông nói:"Thưa
anh em, đây là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Tất cả anh em hãy nhận
Mẹ là Mẹ, làm Đấng trung gian, Đấng bảo vệ anh em". Mẹ Maria vừa hân hoan, vừa dịu dàng thánh thiện và từ ái đón tiếp họ. Từ khi
được lên trời ngự bên hữu Con Mẹ, Mẹ được củng cố và tăng thêm đặc ân thông ban
những ơn trọng đại bề trong cho những ai tôn kính nhìn nhận Mẹ làm Mẹ, nên các
tín hữu ấy nghiệm thấy hiệu quả đó ngay. Họ hết sức cảm động phủ phục dưới chân
Người Mẹ mới của họ, xin Mẹ ban phép lành và kính cẩn hôn tay Mẹ. Nhưng Mẹ từ
chối không dám, vì lúc đó các Tông đồ có mặt ở đấy, Mẹ bảo họ xin các ông nhân
danh Chúa Giêsu chúc lành cho. Thánh Phêrô thưa với Mẹ: "Kính thưa Mẹ, xin Mẹ đừng từ chối các tín hữu này những điều họ xin nài vì lòng
hiếu thảo, để linh hồn họ được an ủi". Bấy giờ Mẹ mới khiêm nhượng vâng lời vị nguyên thủ Giáo hội mà chúc lành cho
họ. Theo lời Thánh Phêrô để đạt những nguyện vọng của những dự tòng đó, Mẹ Maria
còn nói đôi lời khích lệ họ rằng: "Các con rất yêu dấu trong Chúa chúng ta, các con hãy cảm tạ và ngợi khen Thiên
Chúa vì đã ban cho các con được đức tin. Các con hãy vững vàng can đảm tuyên
xưng đức tin ấy, bằng cách vâng phục các Tông đồ của Con Mẹ. Con Mẹ đã lập phép
thanh tẩy để ban cho các con được ấn tích làm con Thiên Chúa. Mẹ xin đem mình
làm nữ tỳ các con, vì Cha đầy khoan dung đã ban cho các con được ân sủng ở đời
này và đời sau sẽ được vui hưởng dung nhan Người đời đời".
Những
dự tòng nhiệt tâm ấy có một quan niệm rất cao cả về Mẹ Maria.
Một lần nữa, họ xin Mẹ ban phép lành rồi ra về với một con
người hoàn toàn đổi mới.
Trong
tuần tám ngày sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các Tông đồ cứ tiếp tục
nói tiếng mọi nước, làm nhiều phép lạ mà khuyên dụ nhiều người trở lại.
Cả các
môn đệ và các phụ nữ đã lãnh nhận lửa Thánh Linh trong nhà tiệc ly cũng
làm được
những sự lạ như vậy. Thành phố Giêrusalem nhôn nhao lên, đâu đâu người
ta cũng nghe nói đến những việc lạ lùng ấy.
Tiếng
đồn về những việc lạ đó lan truyền cả ra ngoài thành. Nhiều
người đã vào thành chứng kiến, lúc trở về không những họ được
ơn lạ chữa lành
bệnh
phần xác,
mà lành bệnh cả phần hồn là được đức tin vào Phúc âm. Số tín hữu mỗi
ngày một tăng thêm lên. Đức tin của họ thật sống động, và đức
mến thật nhiệt
thành: theo gương Thầy Chí Thánh, họ muốn sống một đời trong sạch, đơn
giản, khiêm
nhượng
và cầu nguyện, chỉ lo đến phần rỗi đời đời thôi. Vì mọi người đều được
cùng chung hưởng của thiêng liêng, họ nghĩ của cải vật chất cũng phải
để dùng
chung,
nên
họ đua nhau đem tài sản mình đến làm của chung cho mọi người đều hưởng
dụng. Giáo hội lúc khởi đầu thật hạnh phúc. Một nguồn thác vui tươi thánh
thiện
tưới cho địa đường mới này nên phong phú, giữa vườn vươn lên một cây
hằng sống,
đó là Mẹ Maria.
Mẹ
thật ân cần hoạt động. Không thể kể ra đây được những việc
lạ lùng Mẹ làm cho Giáo hội sơ khai. Không bao giờ Mẹ bỏ mất
một cơ hội làm lành
nào,
dầu
chung dầu riêng, hoặc cầu xin Chúa Giêsu, Đấng bao giờ cũng nghe lời
Mẹ, hoặc luôn
luôn khích lệ và ban ân sủng cho tín hữu nhiều cách, vì Mẹ là Đấng
giữ kho ban ân sủng. Thế nên, trong những năm đầu hạnh phúc
ấy, số người
bị trầm
luân tương
đối ít. Không một người tân tòng nào bị Mẹ quên lãng. Mẹ luôn nhớ đến
mọi người và tiếp đón từng người rất niềm nở. Biết rõ nhu cầu của họ,
nên Mẹ
tuỳ người
mà cung cấp phương dược. Ngoài ra, còn có nhiều người đến cởi mở tâm
hồn với Mẹ. Rất nhiều người đã được Mẹ dậy dỗ và đều được cứu rỗi cả.
Để cưỡng
bách
Con Mẹ ban cho họ ơn ấy, Mẹ thưa với Chúa: "Ôi
Con là Chúa đáng tôn thờ, Con biết Mẹ trở lại thế gian là để làm Mẹ những người
con của Con. Họ chạy đến với Mẹ cả đây, nếu họ phải hư mất ai an ủi Mẹ được?
Xin cho họ chớ nên vô phúc vì đã cậy trông vào một con sâu đất nghèo nàn là Mẹ,
để xin Con xử khoan dung với họ". Chúa Giêsu trả lời cho Mẹ ngay là Chúa đã chấp nhận lời Mẹ xin. Ngày nay, Mẹ
cũng vẫn còn xin mọi ơn cho những ai cầu xin Mẹ như vậy. Có thể nào
mà chúa Giêsu lại chối từ Mẹ chút ơn ấy, sau khi đã tặng Mẹ toàn thể
Hữu Thể Thiên Chúa của
Ngài, để mặc lấy Nhân Tính trong lòng Mẹ.
Tất
cả các giáo dân mới bấy giờ đều đầy tình tri ân Mẹ, và phần
đông, nhất là nữ giới, đã dâng kính Mẹ những đồ vật quý giá;
nhưng Mẹ đều
không nhận
vật nào.
Nếu có trường hợp nào thấy là nên nhận, Mẹ soi lòng cho những người
dâng cúng ấy đem dâng tặng vật cho các vị Tông đồ, để giúp cho những
người
nghèo túng.
Nhưng Mẹ cũng tỏ lòng biết ơn họ y như là Mẹ đã nhận của họ dâng
cho Mẹ vậy. Mẹ hay săn sóc đến các bệnh nhân và người nghèo
thật. Người
nghèo, Mẹ nhờ
trung gian thánh Gioan; còn bệnh nhân chính Mẹ săn sóc chữa lành
bệnh tật
họ. Các
Tông đồ và các môn đệ suốt ngày đi giảng Tin Mừng, cũng được Mẹ săn
sóc cách riêng
hơn nữa. Chính Mẹ đã dọn bữa cho các ngài; ai có chức linh mục, Mẹ
còn quỳ gối hầu bàn, sau khi đã hạ mình rất khiêm nhượng hôn kính
tay họ.
Lòng tôn
kính ấy,
Mẹ đặc biệt tỏ ra với các Tông đồ là những người đã được củng cố
trong ân sủng, và đôi khi Mẹ thấy có ánh sáng bao bọc các vị.
Càng
tiếp tục giảng thuyết và làm phép lạ, các Tông đồ càng được
vui mừng vì chinh phục được nhiều tín hữu mới. Các vị dậy giáo
lý cho tất
cả để
chuẩn bị
chịu phép rửa, mặc dầu chưa định hẳn ngày nào. Theo Thánh Luca,
ngày lễ Chúa Thánh Thần xuống đã tới năm nghìn người theo đạo
mới. Hôm
đó, Mẹ Maria
giới
thiệu với Thiên Chúa đoàn chiên nhỏ của Chúa Giêsu Kitô. Mẹ thưa
lên: "Lạy
Thiên Chúa hằng hữu, con sâu đất yếu đuối này xin ca tụng Chúa vì Chúa đã yêu
thương loài người và ban đức tin vào Chúa cho họ. Con nài xin Chúa soi sáng các
Tông đồ và gợi cho các ông những gì thích hợp nhất với việc cai trị và mở rộng
Giáo hội Chúa". Thiên Chúa đoan kết với Mẹ rằng: Ngài sẵn sàng nhận tất cả những gì Mẹ xin,
nên Mẹ tiếp tục thưa lên: "Lạy Chúa là Chúa con, Chúa khôn ngoan vô cùng đã biết rõ tất cả khát vọng và
than van của con, con chỉ muốn, chỉ tìm, chỉ xin những gì đẹp lòng Chúa nhất
và có thể làm vinh quang Chúa nhất, con xin dâng Chúa những người con mới này,
những người con được Chúa dùng mở rộng Giáo hội Chúa trong thời gian rất ngắn.
Con ước mong cho họ được chịu phép thanh tẩy, vì họ đã được dậy dỗ đủ rồi". Thiên Chúa trả lời: "Hỡi con rất yêu dấu, Cha sẽ thi hành lời con xin, các Tông đồ, cùng với Phêrô
và Gioan, sẽ đến thưa với con. Con hãy hợp ý với họ để thi hành ước muốn của
con".
Cùng
lúc đó, các Tông đồ đến gặp Mẹ, Mẹ tiếp đón các ngài cách kính
trọng như mọi khi, Mẹ quỳ gối trước mặt và xin các ngài ban
phép
lành. Thánh
Phêrô chúc
lành cho Mẹ rồi thưa: " Các
dự tòng đều đã được biết về các mầu nhiện của đạo Chúa. Đã đến lúc ban phép rửa
cho họ được ấn tích làm con Thiên Chúa? Vậy xin Mẹ ban lệnh làm những gì Mẹ biết
là đẹp lòng Chúa". Mẹ vốn rất khôn ngoan nên thưa lại: "Con là nguyên thủ Giáo hội, là đại diện Chúa Giêsu. Chúa sẽ chấp nhận điều con
quyết định nhân danh Ngài. Ý Mẹ cũng là ý Ngài với ý con".
Theo
câu trả lời đó, thánh Phêrô định ngày hôm sau (trùng với lễ
Chúa Ba Ngôi sau này), sẽ làm phép rửa cho dự tòng. Mẹ và
các Tông
đồ khác
đều
đồng ý với
quyết định đó. Có mấy vị trong nhóm đưa ra ý kiến là phải rửa
bằng phép rửa của Gioan Thuỷ Tẩy trước. Nhưng các vị khác nói: "Phép
rửa của Chúa Giêsu đã bãi bỏ phép rửa của Tiền Sứ Ngài rồi,
chỉ làm phép rửa của Chúa thôi. Thánh Phêrô và thánh Gioan
ưng theo ý kiến sau và Đức Maria Mẹ
Giáo hội cũng xác nhận. Về chất liệu và mô thể của phép rửa,
không có ai hoài nghi điều gì, vì như sách Tông Đồ Công Vụ
nói, các Tông đồ đã rửa nhân danh Chúa
Giêsu, để phân biệt với phép rửa của Gioan Thuỷ Tẩy.
Trước
khi bế mạc phiên nhóm ấy, thánh Phêrô đưa ra trước hội nghị
điều quan trọng này: "Anh
em đã biết: Thầy chúng ta dậy phải sống nghèo, và căn cứ vào cái chết của Giuđa,
chúng ta cũng đã thấy: sự lưu luyến của cải đời này thật nguy hiểm thế nào rồi.
Vì thế, điều quan trọng là chúng ta đừng có một cái gì, và cả đừng đụng tiền
bạc nữa. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nghĩ đến việc phân phát của bố thí và chia
của cải người ta dâng cho Giáo hội, nên cần phải có một quy luật". Nhiều kế hoặch bấy giờ được đề ra, nhưng hội nghị không ưng kế hoạch nào cả.
Mẹ Maria cứ lắng lặng khiêm nhường lắng nghe, không biết giải
quyết ra sao, thánh Phêrô và thánh Gioan mới xin Mẹ nói lên
thế nào là đẹp lòng Chúa nhất.
Mẹ
vâng lời ngay và nói: "Các con Mẹ, trong
suốt cuộc đời Ngài, Chúa Giêsu đã không hề động đến tiền bạc, và không hề nhận
một tặng vật nào đáng giá cả. Nhiều lần, Ngài nói với Mẹ: Một trong những mục
đích cao cả của việc Ngài giáng trần là để nâng cao sự nghèo khó lên để người
ta khỏi khinh chê nó. Vì thế, chúng ta phải tôn trọng đức nghèo, thực thi đức
nghèo: vì đức nghèo càng lớn lao trong Giáo hội, Giáo hội càng thánh thiện. Để
đừng ai trong chúng ta liều mình rơi vào tật hà tiện. Vậy xin uỷ cho sáu hay
bảy người nhân đức vững vàng, nhiệm vụ tiếp thu tặng vật tín hữu dâng cúng. Mọi
của dâng cúng ấy chỉ nên gọi bằng một tên là của bố thí, dùng cho người nghèo
khó, bệnh tật, và cho mọi người, không ai còn chiếm quyền riêng tư về một vật
nhỏ mọn nào nữa. Tài vật người ta dâng không đủ dùng, những ai giữ nhiệm vụ phân
chia, hãy nhân danh Chúa mà đi xin. Đời sống chúng ta phải lệ thuộc vào ơn Chúa
Quan phòng, chứ không phải tuỳ vào sự lo lắng thu tích của cải, viện cớ là để
nuôi sống chúng ta".
Toàn
thể hội nghị hoan nghênh ý kiến của Mẹ Maria và đem thi hành
lập tức.
Hôm
sau, tất cả các tín hữu cùng tề tựu, dự thánh tẩy cho các tân
tòng. Thánh Phêrô giảng một bài trước khi ban phép
rửa.
Bài huấn
từ đó đốt
nóng thêm
nhiệt tâm cho các tân tòng, vừa vì họ đã chuẩn bị rất chu
đáo, vừa vì lời của thánh
Phêrô sốt sắng nảy lửa, và vừa vì Chúa ban ân sủng xuống
tràn đầy. Lễ nghi phép rửa đã được cử hành rất long trọng
và trật
tự hoàn
toàn tại
nhà tiệc
ly: các
tân tòng vào một cửa chịu rửa, rồi đi ra một cửa khác,
có các môn đệ và tín hữu hướng dẫn. Mẹ Maria rút lui vào một
góc nhà
Tiệc
ly, từ
đó Mẹ thấy
được
tất cả
sự việc diễn ra, Mẹ đọc nhiều thánh ca cầu nguyện cho mọi
người, Mẹ ngất ngây khi nhìn thấy các hiệu quả của phép
rửa
nơi mỗi
người: linh
hồn
họ ngời sáng,
trong sạch vẻ huy hoàng thần linh. Những người tham dự
cũng thấy một ánh sáng từ trời dọi xuống trên mỗi người vừa
chịu
thánh
tẩy. Thiên
Chúa đã
muốn dùng
dấu lạ ấy, để tỏ cho mọi người biết phép thánh tẩy cao
trọng chừng nào.
LỜI
MẸ HUẤN DỤ
Hỡi
con, những biến cố con vừa kể lại chứa nhiều bí mật liên hệ
đến mầu nhiệm ơn tiền định. Ơn Cứu Chuộc của
Con Chí Thánh
Mẹ đã
rất
dư tràn,
và càng dư
tràn hơn nữa để cứu rỗi tất cả những người đợi chờ
các Tông đồ giảng lần thứ nhất.
Ngoài ơn bề ngoài, họ còn được những ơn soi sáng bề
trong, thúc đẩy họ nhận biết và chấp nhận chân lý.
Dầu
vậy, con vẫn còn ngạc nhiên vì cả dân số thành Giêrusalem đông
đảo như thế mà chỉ có ba nghìn người
trở lại. Nhưng
con sẽ còn
phải ngạc
nhiện hơn
nữa, nếu
con nhớ rằng: ngày nay đã có biết bao nhiêu phương
tiện để thánh hoá mà số người trở lại còn ít hơn
nữa. Mọi
nết hư
đều ngập tràn
một cách
trâng
tráo,
không còn
kính sợ gì Thiên Chúa nữa. Đã hư đốn đến như thế,
loài người còn có thể viện ra lẽ nhỏ mọn nào, để phàn nàn
với Chúa Quan
phòng
, Đấng
hằng ban
cho hết
mọi người những cứu trợ cần thiết, để được cứu rỗi
nữa? Những kẻ ngoan cố gạt bỏ
những cứu trợ ấy, hoặc nhắm mắt bưng tai cho khỏi
thấy chân lý để rồi cứ phụng thờ ma quỷ, còn có thể biện
hộ vào đâu?
tình
thương của Thiên
Chúa
đã và sẽ
không bao giờ thiếu hụt cho ai sống xứng đáng để
lãnh nhận.