44. PHÙ TRỌ CÁC TÔNG ĐỒ
Một
năm trôi qua từ khi Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ được
ơn Chúa soi sáng quyết định đi giảng đức tin trong khắp thế
giới. Để biết mỗi vị phải đi xứ nào, các ngài theo lời khuyên
của Mẹ Maria hợp lòng ăn chay cầu nguyện trong mười ngày
liên tiếp. Từ ngày Chúa lên trời, các ngài vẫn giữ tục lệ
thánh thiện này mỗi khi định làm những việc quan trọng. Ngày
bế mạc, vị Nguyên Thủ Giáo hội cử hành thánh lễ, ngài cho
Mẹ và các Tông đồ hiệp lễ. Theo lời đề nghị của Mẹ, sau một
kinh nguyện sốt sắng, các ngài đọc kinh Tin Kính và thêm
lời tuyên xưng này: "Lạy
Thiên Chúa hằng hữu, chúng con đây là những con sâu đất hèn
mạt, những người thừa hành của Ngài, chúng con sấp mình vui
lòng chịu hết mọi thứ đau khổ, buồn sầu, nhục nhã và cả đến
chịu chết nữa, đề làm tròn sứ mạng chúng con, chúng con nài
xin Chúa sai Thần Linh Chúa xuống, để Ngài ban sức cho chúng
con, và cho chúng con biết mỗi người chúng con phải đi miền
nào cho đẹp lòng Chúa hơn".
Sau
lời nguyện đó, một ánh sáng lại hiện xuống nhà tiệc ly, bao
phủ cả mọi người. Và có tiếng phán rằng: "Vị
đại diện của Thầy hãy chỉ cho mỗi người những địa phương thuộc
về phần của họ. Thầy sẽ ban Thánh Linh soi sáng". Thánh Phêrô liền chia thế giới thành các phần sau: chính ngài nhận các xứ Pongtiô,
Galatia, Bitinia, Capađôcia, Antiokia và sau hết là Rôma, nơi
sẽ là Thánh Đô của Giáo hội hoàn cầu. Thánh Anrê đi nhận xứ
Sythia, Epina, Tracia và Akhai. Thánh Giacôbê Trưởng đi xứ
Giuđê, Samari và Tây Ban Nha. Thánh Gioan ở lại với Mẹ Maria
tại Giêrusalem và, sau khi Mẹ về trời, sẽ đi Tiểu Á. Thánh
Tôma sang Persia và các phần đất người Parthô, Ircania, Braman,
và Partia. Thánh Giacôbê Thứ ở lại Giêrusalem, san sẻ với Thánh
Gioan việc phụng sự Mẹ Maria. Thánh Philiphê giảng cho xứ Prygia
và Sythia. Thánh Batôlêmi đem Tin Mừng cho xứ Lycaoni, Ấn-độ
và Tiểu-Amêni. Thánh Matthêu đi Ai-cập và Ethiôpi. Thánh Simon
cũng đi Ai-cập và cả Ba-tư. Thánh Tađêô sang giảng Phúc Âm
cho miền Mesopotamia, Babylon và Persia. Sau cùng, Thánh Matthia
đi Ethiôpi, Arập và Palestina.
Thánh
Phêrô vừa nói xong, nhà Tiệc Ly vang ra một tiếng động lớn,
tràn đầy ánh sáng; mọi người nghe có tiếng vừa êm ả vừa
mạnh mẽ mời rằng: "Mỗi
người các con hãy nhận lấy phần mình". Mọi người đều phủ phục; tỏ một niềm hân hoan mà nhận phần mình; được ơn biết
đầy đủ về những địa phương mình đến giảng; lại được phú ban
ơn linh mẫn mau lẹ để đi khắp các xứ ấy, ơn sức mạnh để chịu
mọi đau khổ, và được tình yêu Thiên Chúa đốt cháy nóng rực
lên như các thần sốt mến.
Mẹ
Maria là Nữ Vương vũ trụ không những chứng kiến tất cả những
việc lạ ấy, mà còn tham dự vào tất cả với một cấp độ cao vượt
hơn tất cả các Tông Đồ hợp lại. Thiên Chúa đổi mới tri thức
thiên phú của Mẹ về hết mọi thụ tạo, làm cho Mẹ nhận thức được
tất cả những gì xảy ra trên thế giới, phân biệt được hết mọi
người cư ngụ trên mặt đất, rõ ràng y như những người khác lúc
ấy đang ở trong phòng nguyện của Mẹ. Ngoài tri thức thiên phú
ấy, Mẹ còn có một tri thức khác xuất phát bởi thị kiến trừu
xuất biết được Thần Tính Thiên Chúa. Hai tri thức ấy khác nhau
đặc biệt. Khi Mẹ nhìn thấy trong Thiên Chúa những đau khổ mà
các Tông Đồ và tín hữu phải chịu, Mẹ không nghiệm thấy đau
đớn ở giác quan, nhưng khi nhìn thấy những đau khổ ấy nơi chính
Mẹ, Mẹ phải đau đớn.
Trong
khi những sự việc quan trọng ấy xảy ra, Mẹ hứa sẽ nâng đỡ các
Tông đồ khi các ngài đi giảng đạo khắp thế giới. Mẹ
nói với các ngài những lời linh động để khích lệ các ngài tạ
ơn Chúa, chúc mừng các ngài vì đã tùng phục nhiệt thành, cho
các ngài được đầy tin tưởng và tỏ cho các ngài thấy niềm vui
mừng mà những tâm cảm thánh thiện của các ngài đem lại cho
Mẹ. Sau bài huấn từ cảm kích ấy, Mẹ quỳ gối trước mặt các ngài,
hôn tay và xin phép lành, như Mẹ vẫn quen làm.
Mẹ
cũng may cho mỗi vị một chiếc áo trong dệt liền đường chỉ,
tương tự chiếc áo của Chúa Giêsu, áo có mầu vừa tím vừa xám
tro, để ngay cả y phục các Tông đồ cũng nên giống Chúa Giêsu.
Mẹ tặng mỗi vị một thánh giá đeo trên mình, để thánh giá ấy
làm bảo chứng lời các ngài giảng và an ủi các ngài khi đau
khổ. Sau cùng, Mẹ trao cho mỗi vị một hộp nhỏ bằng kim loại
chứa mẩu vải khăn bọc Chúa Giêsu hồi còn thơ ấu, một chút vải
thấm máu Chúa ngày chịu cắt bì và Tử Nạn, cùng với ba cái gai
trong triều thiên gai của Chúa. Lúc trao những vật kỷ niệm
đáng kính đó, với một vẻ mặt vừa uy nghi như nữ vương, vừa
dịu hiền như từ mẫu, Mẹ nói với các ngài, đó là kho tàng lớn
nhất Mẹ có để làm qiầu hành trang của các ngài. Các ngài sung
sướng đến rơi lệ sốt sắng mà tiếp nhận từ tay Mẹ, cảm tạ Mẹ
nghìn trùng, và sấp mình thờ lạy những di vật thánh ấy.
Trước
khi rời bỏ Giêrusalem, các Tông đồ đi viếng các nơi thánh,
tuôn lệ kính hôn đất Chúa Giêsu đã từng bước lên. Sau đó, các
ngài trở lại nhà Tiệc Ly, nơi đây gợi cho các ngài biết bao
việc lạ lùng vĩ đại. Các ngài từ biệt Mẹ Maria, xin Mẹ bảo
trợ; rồi ra đi với tâm hồn vững vàng nhờ lời đầy hiền ái và
sức mạnh thần linh của Mẹ giúp sức.
Các
ngài đi giảng Phúc Âm cho những xứ thuộc phần mình, và các
tỉnh lân cận. Ta không phải ngạc nhiên, vì nhiều lần các
thiên thần đã đem các ngài từ nơi này sang nơi nọ, để thi hành
sứ mạng, để an ủi lẫn nhau, để đệ đạt vấn đề nan giản lên Thánh
Phêrô, hoặc rất thường là để cầu cứu với Mẹ Maria. Quả thật,
những việc đó không có gì lạ, vì, nếu để đem cho tiên tri Đanien
một chút thực phẩm, mà còn có một thiên thần nắm tóc tiên tri
Habacuc đem sang Babỵlon, nói chi những việc quan hệ đến việc
thiết lập Giáo hội và phần rỗi loài người! Những việc lạ lùng
ấy không thích hợp cho những người có trách nhiệm cứu thế giới
thời ấy khỏi tình trạng thờ ngẫu tượng gớm ghiếc, và nâng thế
giới lên hưởng nhận các nhân đức cao trọng của Kitô giáo sao?
Ít
lâu sau khi các Tông đồ phân tán, Chúa Quan Phòng lại ban tiếp
cho các ngài một Tông đồ nữa. Trong những người bách hại
Giáo hội mới phôi thai một cách gay gắt nhất, có một thanh
niên có trí khôn sắc sảo, tâm hồn quảng đại và tính tình cương
nghị. Chàng hãnh diện vì thông hiểu thấu đáo luật Maisen, can
đảm tuyên nhận và anh dũng bảo vệ luật ấy trước những khám
phá mới của một tử tội bị đóng đinh thập giá. Thêm vào lòng
nhiệt thành hăng hái của chàng, quỷ Luxiphe lại đến gieo vào
một hung hãn, vì nó nhận ra chàng là một trợ lực quý báu cho
nó, để đả phá Giáo hội. Thanh niên đó là Saulô, sau này được
vinh dự trở nên Tông đồ Phaolô. Ông đã từng tham dự vào việc
giết chết Têphanô. Việc này khiến Satan xui ông làm những việc
ghê gớm: sát hại các Tông đồ và cả Mẹ Chúa Giêsu. Nhưng tên
quỷ phản phúc đó đã lầm: Saulô chỉ vì ý ngay lành mà nhiệt
thành bảo vệ lề luật Maisen, nên mới trở nên kẻ thù của Chúa
Kitô; Saulô không phải là kẻ tàn ác đáng ghét. Chước cám dỗ
của quỷ đã gặp phải tâm hồn cao thượng và quảng đại của
ông. Ông chỉ muốn chiến đấu bằng thứ khí giới trung thành hợp
pháp của công bằng và lý trí thôi. Ông gớm tởm ý tưởng mưu
hại mạng sống Mẹ Maria. Ông thấy Mẹ là một người rất đoan chính,
và rất vững vàng trong suốt cuộc Tử Nạn của Người Con độc nhất
của Mẹ, đến nỗi ông cảm phục Mẹ là một vị anh thư đáng tôn
trọng; tự thâm tâm, ông cảm thông với những đau khổ Mẹ phải
chịu, những đau khổ mà ai cũng đã biết là thật cực độ. Tâm
tình ấy giúp nhiều vào việc quy hồi của ông.
Trong
lúc chờ đợi tiêu diệt đạo mới, ông xin thầy thượng tế cấp văn
thư, trao cho ông được quyền truy nã và tống giam các
tín hữu đạo Chúa Giêsu. Ông tình nguyện dâng hiến bản thân,
gia sản và mạng sống mình để bảo vệ tôn giáo của tổ tiên. Được
thượng tế cấp văn thư ngay, ông liền lên đường đi Đama để bắt
các tín hữu gốc Giêrusalem vừa lên ẩn trốn tại đó. Ông đi vội
vã với một đoàn tuỳ tùng, và nhất là với một lũ quỷ đông vô
số mà ông không biết.
Mẹ
Maria theo dõi ông với một ánh nhìn thương cảm. Chúa Giêsu
đã báo cho Mẹ biết Saulô sẽ là một Tông đồ hiển danh của dân
ngoại, nên Mẹ nghĩ đã đến lúc phải bắt ông dừng lại trên đường
lầm lạc, và đưa ông vào đường chân lý. Tình trạng mỗi lúc một
trầm trọng thêm rồi. Đầy đau khổ và tin tưởng, Mẹ sấp mình
cầu xin Chúa: "Lòng
lành vô cùng lạ lùng của Con đã đoái thương làm Con trở nên
Con của Mẹ; Con đã trao cho Mẹ việc chỉ đạo Giáo hội, sao Con
lại để cho Giáo hội phải bách hại tan nát thế này? Con hãy
làm cho con rồng hoả ngục kiêu ngạo phải vỡ mặt đi: nó đang
hằm hằm đe doạ đàn chiên vô tội của Con đó. Nó đã lừa dối Saulô,
xin Con hãy kéo Saulô ra khỏi nanh vuốt nó. Đây là lúc Con
giải thoát cho linh hồn mà Con đã chọn để tôn vinh danh Con,
và gieo vãi ơn lành cho thế giới".
Mẹ
Maria dành khá nhiều giờ để lặp lại lời cầu xin ấy. Mẹ sẵn
sàng hiến thân chịu đau khổ và ngay cả chịu chết để được nhận
lời. Sự khôn ngoan vô cùng của Chúa Giêsu đã muốn Saulô phải
nhờ lời cầu xin của Mẹ mới trở lại, nên Ngài hiện xuống nhà
Tiệc Ly, nhưng chưa chấp thuận ngay lời Mẹ, vì Ngài rất thích
nghe tiếng van nài phát xuất từ Trái Tim rất trong sạch, rất
hiền ái của Mẹ. Vì thế, coi như Chúa muốn mặc cả với Mẹ về
ơn Chúa rất sẵn lòng ban ơn ấy. Mánh khoé yêu thương ấy kéo
dài cuộc đàm đạo thần linh giữa Chúa và Mẹ, và rốt cuộc là
những lời van xin tha thiết của Mẹ đã thắng: "Thôi,
Con đừng chê đừng khinh lời Mẹ cầu xin nữa. Con đừng trì hoãn
thi hành thánh lệnh cho Saulô trở lại nữa. Con cho linh hồn
ủ dột của Mẹ được an ủi thấy Saulô hoạt động cho vinh danh
Con đi".
Lửa đức ái thiêu đốt Trái Tim Mẹ bừng bừng đã có thể làm tiêu
tan sự sống tự nhiên của Mẹ, nếu không có ơn lạ trợ giúp. Và,
dầu không chết, Mẹ cũng đau đớn quá mà ngất xỉu. Chúa Giêsu
không thể kéo dài trò chơi tình yêu đó nữa. Ngài nói: "Mới
có thế mà Mẹ đã xỉu rồi. Vậy xin Mẹ cứ làm như ý Mẹ muốn! Mẹ
xin cho Saulô thế nào, Con vâng ý Mẹ như vậy. Ít phút nữa,
Con sẽ đón Saulô vào tình thân ái của Con".
Rồi
Chúa biến đi. Mẹ Maria, tiếp tục cầu nguyện và được thị kiến
thấy mọi việc xảy ra cho Saulô như thánh Luca đã kể lại
(Act 9). Cách xa thành phố Đama một quãng ngắn, Chúa Giêsu
hiện ra với Saulô trong một đám mây rực sáng. Ánh sáng tràn
ngập Saulô cả tâm hồn lẫn thể xác. Ông hoảng hốt nhào xuống
ngựa. Ông càng náo loạn khi nghe rõ một tiếng tố cáo: "Saulô!
Saulô! Sao ngươi lại bách hại Ta?" Ông kinh hãi trả lời: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Câu trả lời nặng trĩu và bất ngờ, "Ta là Giêsu ngươi đang tìm bắt", làm ông chết điếng, nhưng cũng biến đổi ông. Ông thú nhận mình thất bại: "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?"
Thế
là xong: kẻ nhiệt thành bắt đạo đó đã trở nên một Tông đồ còn
nhiệt thành hơn nữa. Bị vật ngã xuống đất, bị mù, bị
suy nhược đến chết được, bị tan nát vì hối hận, bị thiêu đốt
vì tình yêu, lúc đó - như sau này ông viết lại - lúc đó ông
đã được đưa lên tầng trời thứ ba, tức là lên thiên đàng. Ở
đó, ông xem thấy rõ ràng Thần Tính Thiên Chúa với các thuộc
tính vô cùng của Ngài, thấy các chân lý mạc khải, nhất là các
mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc hiển hiện trước đôi mắt sững
sờ của ông. Ông nhận ra rất rõ ràng thánh Têphanô, và nhất
là Mẹ Maria chính thức góp công sức vào việc cải giáo và công
chính hoá ông. Ngay lúc đó, ông đã cảm thấy phải thiết tha
sùng kính Mẹ hơn hết, vì ông vừa thấy phẩm chức tuyệt vời của
Mẹ. Ông cũng nhìn thấy sứ mệnh đầy cao cả và đau khổ của ông,
những bí mật khác mà ông không được phép tiết lộ. Tất cả những
sự kiện đó đốt to lên một tình yêu không mức độ trong tâm hồn
ông. Cho nên ông tự hiến mình, tự hy sinh mình hoàn toàn dứt
khoát. Chúa Ba Ngôi mãn nguyện mà gọi ông là khí dụng
ưu tuyển. Các thánh trên trời hoan hỉ một niềm vui phụ trội
mới; các ngài tung hô chúc tụng Chúa vì những ơn lạ lùng ban
xuống trong cuộc quy giáo rất hữu ích này cho thế giới.
Tất
cả những việc vĩ đại ấy đã xảy ra mau chóng. Hôm ấy là ngày
hai mươi chín tháng Giêng, mười ba tháng sau cuộc tuẫn
giáo của thánh Têphanô, và năm thứ ba mươi sáu sau Chúa Kitô
Giáng Sinh. Saulô bị loà mắt nên người ta phải dắt ông tới
Đama, vào một nhà thân quen. Ông ở lại đó ba ngày không ăn
uống, chỉ chìm ngập trong sự cầu nguyện tuyệt cao vời. Ông
sấp mình xuống đất, lệ sầu ướt đẫm, điêu đứng khổ sở khi nhìn
lại dĩ vãng, ông kêu lên: "Than
ôi! Tôi đã sống tối tăm chừng nào! Ôi Chúa tình yêu vô cùng,
ai đã bắt Chúa xử nhân từ với con là con sâu đất, là kẻ phạm
thượng, kẻ cừu địch chừng này? A, lạy Chúa, nếu không phải
là chính Chúa, nếu không phải là Mẹ Chúa qua lời cầu xin của
Mẹ? Chính lúc con bách hại Chúa, chính lúc con sắp đổ máu vô
tội, Chúa lại rửa con trong Máu Chúa, và cho con được tham
dự vào Thần Tính Chúa! Phần con, con nguyện hiến trót mình
để rao giảng và bênh vực Danh Thánh Chúa".
Nhưng
giữa bấy nhiêu xúc động, ông không quên thao thức nghĩ đến
Mẹ Maria. Mặc dầu ông đã thấy nơi Chúa, Mẹ Maria là trung
gian cuộc cải giáo của ông, ông cũng e ngại cuộc đời tội lỗi
của ông làm cho Mẹ phải kinh sợ. Các môn đệ ca tụng lòng nhân
từ dịu hiền của Mẹ và bảo đảm với ông là Mẹ sẵn sàng đón nhận
ông. Lời họ làm ông càng mong được gặp Mẹ, gieo mình dưới chân
Mẹ và hôn đất chỗ Mẹ bước lên. Nhưng rồi ông lại tự hổ thầm,
và mối e ngại lại vây hãm ông. Cuối cùng, ông tự nhủ: "Can
đảm lên chứ, con người hèn mạt tội lỗi này. Đức Mẹ đã cầu nguyện
cho ngươi, đâu có từ chối gặp ngươi với tư cách là Mẹ Người
Con cao cả là Chúa Giêsu. Cả hai Đấng đều đầy tình thương và
không khinh chê tấm lòng sám hối khiêm hạ của ngươi!"
Cùng
với các thiên thần hầu cận, Mẹ Maria cảm tạ Chúa vì bấy nhiêu
ân sủng lạ lùng, và đã thấu biết những ý nghĩ đang dầy
vò vị Tông đồ mới ấy. Thấy trước rằng ông chưa có thể đến Giêrusalem
sớm được, Mẹ đã không muốn hoãn phúc an ủi ông ước mong đến
ngày ấy. Mẹ sai một thiên thần mặc hình người xinh đẹp chói
ngời đến an ủi ông. Thiên thần nói: "Mẹ
Chúa Giêsu chúc mừng ông và hạnh phúc ông được. Mẹ khích lệ
ông cảm tạ Con của Mẹ đã gọi ông làm Tông đồ cho Ngài. Mẹ cũng
quả quyết với ông là Mẹ sẽ là Bà Mẹ cứu trợ ông trong hết mọi
gian nan ông sẽ gặp, cũng như sẽ phục vụ ông như nữ tì, như
Ngài đã là nữ tì của tất cả các Tông đồ. Mẹ uỷ tôi đến chúc
lành cho ông nhân danh Mẹ và nhân danh Con Mẹ".
Thánh
Phaolô hết sức khiêm nhượng, tôn kính và hoan hỉ tiếp nhận
sứ điệp ấy. Ông trả lời: "Thưa
thiên thần, ngài biết đó, không bao giờ có ai đáng kinh tởm
như tôi, và không bao giờ đã có ai được ưu đãi bằng tôi: xin
ngài giúp sức tôi cảm tạ Chúa đời đời vì bấy nhiêu ân huệ.
Xin cũng thưa lên Đức Mẹ thương xót, Đức Nữ Vương của chúng
ta dùm tôi rằng: tên nô bộc rất bất xứng này xin phủ phục dưới
chân Mẹ trong cát bụi, cầu xin Mẹ dung tha những điều nó xúc
phạm, và xin đặt mình dưới sự bảo trợ của Mẹ. Mẹ truyền gì
nó cũng xin vâng".
Thiên
sứ chuyển đạt câu trả lời ấy lên Mẹ. Mẹ đã biết rồi, nhưng
cũng hoan hỉ lắng nghe và tạ ơn Chúa.
LỜI
MẸ HUẤN DỤ
Hỡi
con, Mẹ khuyên con hãy khóc than, vì Giáo hội ngày nay khác
xa Giáo hội buổi ban đầu quá. Tại sao vẻ đẹp các Tông
đồ mặc cho Giáo hội đã bị mờ xoá đi như vậy? Khổ cho những
ai đã góp phần thay hình đổi dạng đau thương ấy!
Hỡi
con, Mẹ khuyên con hãy khóc cho tình trạng lâm nguy đó. Con
hãy coi: những viên đá xây Cung Thánh đã bị ném lăn lóc
ra ngoài ngã ba đường phố như thế nào! Các linh mục của Chúa,
đáng lẽ phải thánh hoá dân chúng, làm cho họ nên giống mình,
lại đã nên đê hèn như dân. Các vị đó tiếp xúc với người phàm
một cách nhơ nhuốc, làm xấu chức linh mục và những nhân đức
đáng quý trang sức các vị. Những vị được Chúa xức dầu, cung
hiến rõ rệt để chỉ phụng sự Ngài, đã ra hư hỏng, lạc loài khỏi
cấp bậc cao sang chí thánh của mình. Họ loại bỏ danh dự phẩm
chức mình để dìm nó vào những hành động xấu xa, không xứng
đáng với chức vụ cao cả của họ giữa loài người. Họ ham mê phù
phiếm, để mình trôi theo tật hà tiện, theo tình dục. Họ lo
mưu tư lợi, yêu tiền bạc, đặt tất cả niềm hy vọng của họ vào
tiền bạc. Họ còn hèn hạ đến nỗi đi du nịnh và làm tôi người
đời, người quyền quý, hơn nữa, làm tôi cả đàn bà; đôi khi họ
còn không ngại đi dự những cuộc hội hè xấu xa tội lỗi. Khó
có một chiên nào trong đoàn chiên của Chúa Giêsu nhận ra
tiếng gọi kẻ chăn nơi họ nữa, tìm được của ăn nhân đức thánh
thiện nơi họ nữa; tiếng gọi và của ăn mà đáng lẽ họ phải là
chủ phân phát mới đúng.
Nhưng
không phải là không có phương dược nào để trị liệu. Trong cuộc
trở lại của Saulô, Chúa Giêsu đã tỏ cho loài người thấy
rất rõ lòng Ngài nhân từ sẵn sàng tha thứ tội lỗi họ, mà nâng
cao linh hồn trong thánh thiện biết bao, miễn là họ đáp lại
tiếng Ngài gọi và cộng tác với ân sủng Ngài ban như vị đại
Tông đồ ấy. Họ hãy quyết chí luôn luôn tuân theo thánh ý Ngài: "Lạy
Chúa, Chúa muốn con làm gì?"
Phải,
hỡi con, con hãy thành thực nói lời ấy cách thật quảng tâm.
Con hãy vâng phục Thiên Chúa như dụng cụ vâng phục người
thợ sử dụng nó. Con cũng hãy vâng phục các vị đại diện của
Chúa như thánh Phaolô đã vâng phục Anania.