Mẹ
Maria Lệnh Cho Ta Dùng
Phương Pháp Cứu Rỗi Là Lần Hạt
Mân Côi
Có người
chê đó làphương thế tầm thường
và dễ dàng. Suy luận ấy nhắc lại
câu truyện tổng tư lệnh Naaman mắc
bệnh cùi được Ngôn Sứ Elisê bảo:
muốn được lành chỉ tắm 7 lần
ở Sông Hòa Giang. Ông tướng khinh phương
thuốc quá tầm thường, đùng đùng
nổi giận ra về. Bộ hạ can: giá vị
tiên tri bảo ngài làm một điều khó, ngài
cũng phải làm, huống chi đây là một
việc quá dễ. Nghe phải, ông tướng
đã không cho đây là một việc quá dễ.
Nghe dễ và đã được cứu hai phần
hồn xác. (II Vua 5, 1-19)
Tắm
sông 7 lần là việc tầm thường và
hơi chán, nhưng được người
của Chúa chỉ dạy đã trở nên thuốc
thần. Thiên Chúa đã thường dùng nhan nhản
những phương tiện quá tầm thường
để làm vô số công việc tuyệt diệu.
Romano
Guardini, văn hào lỗi lạc nước Đức
đã viết: Trong việc lần hạt Mân Côi,
tác động lặp đi lặp lại làm
cho người ta dễ rơi vào hành đọng
máy móc và nhàm chán. Nhưng có phải bản chất
của tràng hạt Mân Côi là đem đến nhàm
chán không? Trước hết, nếu xét các kinh
đọc, ta sẽ thấy tái hiện cả
một lịch sử cứu độ... Tất
cả những mầu nhiệm ấy đang
được áp dụng vào ta. Ta trông ơn Chúa
giúp đỡ khi sống và trong lúc chết. Rồi
ta hợp với các Thiên Thần ngợi khen danh
Chúa Ba Ngôi. Lời kinh nguyện của ta không bi
lạc lõng trong giây phút này, nhưng cùng hòa âm với
muôn vật từ khởi thủy trời đất.
Và đây, cả cuộc đời Chúa Cứu
Thế được tái diễn trong 15 suy gẫm
vắn tắt. Ta sẽ được làm chứng
cho lịch sử Cứu Độ và thông phần
vào ơn Cứu Chuộc. Cách cầu nguyện
cao trọng ấy mà bị ta coi thường
sao?. ..
Khi hai
người thương nhau, người ta không
đem khoe tình yêu nơi công cộng. Họ không
bắt nhau phải ăn ở cao sang rồi tìm
những lời hoa mỹxưng tụng lẫn
nhau. Những loại tình yêu ấy, nếu có,
chỉ là những thứ tình yêu giả tạo,
ích kỷ và hướng về sự tan rã. Trái
lại những tình yêu chân chính, họ âm thầm
sống với nhau. Họ không chán phải lặp
lại chữ yêu. Càng nói đến chữ yêu
bao nhiêu, họ càng say sưa bấy nhiêu.
Đối
với Đức Maria là Mẹ ta, một người
Mẹ yêu thương và quyền thế, làm sao
ta có thể nhàm chán khi nhắc đến tên Mẹ,
đến tước hiệu của Mẹ và
tình yêu Mẹ? Vậy lý do sâu xa làm ta không quí trọng
lối cầu nguyện do Mẹ chỉ dạy
đúng là vì ta thiếu tình yêu đối với
Mẹ, ta chưa học hiểu đủ về
Mẹ, ta chưa hiểu được bản
chất cao sang đích thực của con người
được tiêu biểu nơi Mẹ và nơi
Con Mẹ.
Giai Thoại
Hai
Ấn kiều thọ ân Mẹ La Vang
Cha Giuse
Trần VĂn Trang là một linh mục nhân đức
và học biết rộng. Ngài là tác giả nhiều
sách tương đối giá trị, một trong
những vị đã từ đầu có công lưu
bút tích về Đức Mẹ La Vang. Sau Giáo Sĩ
Bomin, tác giả những dòng lịch sử La Vang
đăng trong Niên sử Truyền Bá Đức
Tin năm 1901, cha Trang đã viết cuốn “Tự
Tích Tôn Kính Đức Mẹ La Vang”, xuất bản
năm 1923 tại Qui Nhơn.
Ngài đã
kể lại nhiều ơn lạ mà Đức
Linh Mẫu ở Núi Đồi Việt Nam, đã
ban cho nhiều người.
Theo ngài,
sau đây là những ơn lạ đã được
ban cho hai người Ấn Độ.
Đầu
năm 1922, ông Lesages, quán ở Pođichéry thuộc
Ấn Quốc, được bổ nhiệm
đến Sở Quân Thuế An Thành, gần Huế.
Hai vợ chồng Lesages rất đạo đức,
ngoài tập quán lần hạt Mân Côi hằng ngày
còn có thói quen mời các linh mục Việt Nam và
ngoại quốc lân cận đến dùng cơm
tại nhà.
Ngày kia,
trong số thực khách có cha già Luận. Ông bà
Lesages đến cúi đầu xin cha đáng kính
cầu nguyện cho được sinh con vì là
vợ chồng son, trên mười năm rồi.
Cha Luận hứa sẽ cầu nguyện và khuyên
ông bà nên cầu cùng Đức Mẹ La Vang ban
cho ơn ấy.
Hai ông
bà hành hương đến nơi linh địa
cầu xin ban cho ơn lạ. Đức Mẹ
nhậm lời...
Độ
nửa tháng sau, một người đồng
hương và bạn thân Lesages là ông S. Sanjivy đến
thăm. Bấy giờ ông này giữ chức lục
sự Tòa Aùn Đà Nẵng.
Ông bà
kể cho khách ơn lạ Đức Mẹ La
Vang đã ban và ca ngợi sự linh ứng của
Đức Trinh Nữ ở chốn Núi Đồi
Việt Nam.
Ông S.
Sanjivy chăm chỉ nghe. Hiện ông đang phải
bối rối như tơ vò, vì đang là nạn
nhân của mỗt vụ kiện lớn. Nếu
ông không được trắng án trong vụ tố
tụng này, ông phải mất chức, bị
nhục nhã và tương lai sẽ vô cùng đen
tối. Chính ông chánh án cũng bảo trước:
“Nếu ông bạn không khéo
biện bác và để người ta chứng
minh đủ bằng cớ thì dù tôi là bạn
đồng nghiệp cũng không cứu nổi”.
Ông S.
Sanjivy liền nài nỉ bạn lần hạt
cầu nguyện và dẫn mình đến La Vang
để xin ơn cứu thoát đại họa.
Một
toán 5 người Ấn Kiều và đoàn tùy tùng
ăn mặc sang trọng đã đến nơi
linh địa. Cha Bạch và cha Chuyên đã tiếp
đón phái đoàn hành hương ngoại quốc
này.
Phái đoàn
đến quì dưới chân Đức Mẹ
xuất hiện và cầu nguyện rất sốt
sắng.
Vài ba
tháng sau, ông Lesages, ông bà S. Sanjivy đem vô số
đèn nến tới nhà thờ thắp sáng choang
để tạ ơn Đức Mẹ.
Ngày hôm
sau, ông S. Sanjivy thân hành đến gặp cha Trang,
bấy giờ làm chánh xứ Phú Ngấn, xin dâng
5 đồng làm lễ tạ ơn Đức
Mẹ La Vang (5 đòng năm 1922 có lẽ mua được
2 lượng vàng).
Người
Ấn thuật lại đầu đuôi sự
việc cho cha nghe như đã kể trên và kết
luận:
- Thật
con đã nhờ ơn Đức Mẹ La Vang
mà khỏi bị án một cách lạ lùng. Nếu
không, con đã bị thải hồi và phải
vô cùng nhục nhã. Vậy xin cha dâng lễ tạ
ơn Đức Mẹ cho con.
Sau đó
ông S. Sanjivy xin cha Trang một bản lịch sử
La Vang để phổ biến bằng ngoại
ngữ.
Lời
Nguyện
Thánh
Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, xin giữ
trong con một tâm hồn trẻ thơ tinh tuyền
trong suốt như một dòng suối. Xin đem
đến cho con một tâm hồn đơn sơ,
không vướng mang chất chứa sầu muộn.
Một tâm hồn cao đẹp để hiến
dâng, luôn rộng mở cho cảm thông nhân ái. Một
tâm hồn trung tín quảng đại, không hay
quên bắt cứ việc thiện nào, không oán
hờn dẫu mảy may sự ác. Xin cho một
tâm hồn dịu hiền, khiêm nhượng, biết
yêu thương không mong chờ đáp trả.
Vui sướng để được xóa mờ
nơi con tim bằng hữu, trước tình yêu
Con Chí Thánh Mẹ. Một tâm hồn bao la và bất
khuất, không một vô ơn nào đóng lại,
không sự thờ ơ nào làm chán nản. Một
tâm hồn say đắm vinh quang Chúa Kitô, nứt
rạn vì tình yêu Ngài, và vết thương chỉ
được hàn gắn khi lên đến trời.
|