21.
MẸ MARIA CHỈ TÌM VINH DANH CHÚA
Anh
chị em rất thân mến trong Chúa Kitô và Mẹ Maria,
Như anh chị em đã biết, có một kinh quí trọng nhất trong Giáo
Hội, mà chúng ta thường đọc, đó là kinh Lạy Cha. Vì kinh này do
chính Chúa Kitô đã đặt ra. Trong kinh này, ngoài câu kính chào
và tung hô Thiên Chúa là Cha chúng ta đang ngự trên trời, thì
việc đầu tiên Chúa Kitô bắt chúng ta phải nài xin với Thiên Chúa
Cha, cũng như là mục tiêu bắt buộc chúng ta phải hướng về trong
trót cuộc sống tạm giữa trần gian là: Xin cho Danh Cha được cả
sáng.
Hay nói rõ hơn: Trong hết mọi việc chúng ta làm, trước tiên phải
tìm vinh danh Thiên Chúa, tuyệt đối không được tìm hư danh cho
mình. Nghĩa là chúng ta phải có chủ ý ngay lành trong các việc
chúng ta làm. Như lời thánh Phaolô đã nói: "Dù anh chị em
ăn uống hay làm bất cứ việc gì, hãy làm vì vinh danh Thiên Chúa"
(I Cor 10:31).
CẦN THIẾT CỦA CHỦ Ý NGAY LÀNH
Trong Kinh Thánh, chính Chúa Kitô đã phán dạy chúng ta rằng: "Anh
chị em hãy cẩn thận, đừng làm việc lành trước mặt người ta có
ý khoe khoang. Chẳng vậy, anh chị em không được phần thưởng gì
nơi Cha anh chị em ở trên trời.
"Bởi thế, khi làm phúc của gì, anh chị em đừng thổi kèn như
kẻ giả hình ở hội đường và trên hè phố cốt ý cho người ta khen.
Ta bảo thật, chúng đã được phần thưởng rồi.
"Khi anh chị em làm phúc của gì, chớ cho tay trái biết việc
tay phải làm. Để việc anh chị em làm phúc được kín đáo, và Cha
trên trời là Đấng thấu suốt mọi sự kín nhiệm, sẽ thưởng anh chị
em" (Mt 6:1-4).
Anh chị em nghĩ coi: Chúa dạy một điều có kỳ lạ không? Làm sao
tay phải làm phúc mà giấu không cho tay trái biết được?
Chúng ta đừng hiểu câu này theo nghĩa đen, mà phải hiểu nghĩa
đúng rằng: Dù chúng ta làm phúc, bố thí, hay làm bất cứ việc gì,
đừng làm với chủ ý để người ta khen, mà phải làm với chủ ý trong
sạch, tốt lành, ngay chính, tức là làm vì lòng yêu mến Chúa, và
để danh Chúa được vinh sáng mà thôi.
Anh chị em nên biết rằng: Chủ ý ngay lành là phần thiết yếu của
mọi hành động của chúng ta, nhờ nó, các hành động của chúng ta
mới có giá trị.
Đối với người đời thì một công việc càng khó nhọc vất vả, càng
có giá trị. Còn đối với Thiên Chúa, thì giá trị công việc được
tính theo mức độ của ý ngay lành. Như lời Kinh thánh: "Người
ta chỉ trông xem công việc ở ngoài, còn Thiên Chúa nhìn vào tận
tâm hồn" (I Reg 16:7).
Anh chị em đã biết: Chẳng có việc lành nào tốt lành quí báu cho
bằng chịu tử vì đạo, bỏ sự sống vì đức Tin, thế mà thánh Phaolô
đã quả quyết rằng: "Cho dù tôi hiến thân cho lửa thiêu đốt,
nếu không có lòng mến Chúa, thì công việc đó cũng thành vô ích
cho tôi" (I Cor 13:3).
Các thánh Giáo phụ đã giải thích: Tử vì đạo không phải ở tại chỗ
chịu đau khổ, mà là chịu đau khổ vì Chúa.
Vì thế, thánh Augustinô nói: "Cái làm nên bậc Tử đạo không
phải là những hình khổ, mà chính là lý do, là chủ ý của người
tử đạo."
Anh chị em đã biết chuyện thánh Marcô kể lại trong Phúc Âm: "Chúa
Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền. Chúa xem người ta bỏ tiền vào
hòm. Nhiều người giàu bỏ vào những số tiền lớn. Cũng có một bà
góa nghèo bỏ vào hòm hai đồng tiền nhỏ, trị giá bằng một phần
tư xu. Chúa liền gọi các môn đệ lại mà nói: Ta bảo thật, đàn bà
góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn tất cả những người đã bỏ tiền vào
hòm" (Mc 12:41-43).
Tại sao vậy? Thưa là vì bà góa này làm phúc với chủ ý ngay lành,
để đẹp lòng Chúa, dâng cúng cả gia tài nhỏ bé của mình cho Chúa.
Còn những người khác, mặc dù bỏ vào hòm rất nhiều tiền, có khi
nhiều gấp trăm, gấp ngàn bà góa nữa, nhưng lại làm với chủ ý xấu,
chỉ muốn được tiếng khen mà thôi.
TÍCH CHUYỆN MINH CHỨNG
Trong sách truyện thánh Pacômê, ông Sirius đã thuật rằng: Một
thầy Dòng nọ, một ngày kia cố gắng đan được hai chiếc chiếu, còn
các thầy khác, chỉ đan được một chiếc mà thôi. Thầy Dòng đan được
nhiều liền trải hai chiếc chiếu ở giữa lối mà thánh Pacômê là
Cha Bề Trên sắp đi qua, chỉ có ý để Cha Bề Trên biết mà khen mình.
Thánh Pacômê thấy vậy, liền quay mặt, trở gót, đi lối khác, vừa
đi vừa nói to cho các thầy Dòng khác nghe:
- "Anh em xem kìa, thầy Dòng này đã chịu khó làm việc từ
sáng chí tối, có một điều là: bao công lao vất vả thầy ấy đã làm,
đều cúng cho ma quỉ hết."
MẸ MARIA CHỈ TÌM VINH DANH CHÚA
Anh chị em nên biết rõ điều này: Muốn làm mọi việc chỉ vì vinh
danh Chúa thì trước hết phải có lòng yêu mến Chúa hết lòng hết
sức đã. Nếu chúng ta không có lòng kính mến Chúa, hoặc chỉ mến
Chúa sơ sài thôi, thì làm sao chúng ta có thể qui hướng hết mọi
việc về Chúa được?
Cũng giống như ở trần gian này, hễ người ta đã yêu một người nào
say mê, thì tất cả cuộc đời họ: tư tưởng luôn nghĩ về người yêu,
lời nói luôn nhắc đến người yêu và việc làm luôn hướng về người
yêu, luôn làm đẹp lòng người mình yêu mà thôi.
Nơi Đức Mẹ Maria, nói được hoàn toàn là khối lửa yêu mến Chúa
tha thiết tận tình.
Ngay từ tuổi thơ ấu, cái tuổi mà trẻ em, nhất là trẻ gái, hay
làm nũng, quấn quít lấy cha mẹ, cái tuổi mà cha mẹ yêu thương
và âu yếm, săn sóc con không miệng lưỡi nào tả xiết, nhất là đối
với con một, như bé Maria. Thế mà Đức Maria đã vui lòng và mau
mắn từ giã cha mẹ để đi tu trong Đền Thánh, vì Mẹ đã yêu mến Thiên
Chúa tận tình, tha thiết, hơn cả tình yêu đối với cha mẹ phần
xác bội phần.
Chính Đức Mẹ đã phán với thánh nữ Brigitta rằng: "Hỡi con,
Mẹ đêm ngày chỉ chăm lo một việc là yêu mến Thiên Chúa. Trong
đêm thanh vắng, Mẹ hằng quì trước cung thánh đền thờ Giêrusalem
dâng lên Thiên Chúa lòng yêu mến thiết tha hăng say và quyết tâm
chỉ làm hết mọi việc vì yêu mến Chúa, cho danh Chúa được vinh
sáng."
Từ đó cho đến khi Mẹ lìa trần, tình yêu mến Chúa và tìm vinh danh
Ngài hằng lớn dần, triển nở một cách mạnh mẽ. Có thể nói được
như thánh Augustinô và cha Suarê rằng:
Đức Mẹ Maria hằng kính mến Chúa khi thức, khi ngủ, khi ăn uống,
nghỉ ngơi, làm việc. Mẹ kính mến Chúa mọi nơi, mọi lúc, không
ngơi giây phút nào. Đúng như lời sách Diễm Tình Ca đã nói: "Tuy
ngủ, mà Trái Tim Mẹ vẫn thức" (Cant 5).
Mà vì lòng kính mến Chúa tràn đầy và trọn hảo như thế, Mẹ đã làm
mọi việc để vinh danh Chúa. Mẹ chỉ tìm vinh danh Chúa mà thôi.
Để được yêu mến và làm vinh danh Ngài, Mẹ Maria đã hạ mình sâu
thẳm, tới tột độ của loài thụ tạo đã được tạo dựng từ hư vô. Mẹ
đã thi hành đúng từng nét lời thánh Gioan Tiền hô đã tuyên bố:
"Người cần nổi lên, còn tôi cần phải hạ xuống" (Jn 3:30).
Để danh Chúa được vinh sáng, cho thiên hạ kính tôn, ca tụng Chúa,
Mẹ đã sống ẩn dật, tiềm tàng. Những khi dân chúng ca tụng, tung
hô Chúa, hoặc được thiên hạ chào đón rầm rộ, nồng nhiệt, thì Mẹ
lánh xa xa, nhường vinh danh cho một mình Chúa.
Chắc chắn rằng: Mẹ đã xin với Chúa Giêsu Con yêu dấu của Mẹ giấu
Mẹ đi, đừng cho ai biết đến mà ca tụng, khen lao, chỉ để dân chúng
ca tụng, khen lao Chúa Cứu Thế mà thôi, cho nên, khi Chúa đang
giảng, thì có một phụ nữ đã cất tiếng khen Đức Mẹ: "Hạnh
phúc cho người đàn bà đã sinh ra Thầy và cho Thầy bú." Tức
thì Chúa Kitô đáp lại: "Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì
hạnh phúc hơn" (Lc 1:27-28).
Chắc chắn rằng: Đức Mẹ đã xin với Chúa Giêsu Con quí báu của Mẹ
đừng đả động gì đến danh tánh, gia đình và các đặc ân Mẹ đã được,
vì thế, suốt ba năm giảng đạo, Chúa Kitô không hề đả động đến
người Mẹ yêu quí của Ngài, dù nói cho các Tông Đồ, Môn đệ, hay
là nói cho dân chúng.
Chắc chắn rằng Đức Mẹ cũng đã xin với các Tông đồ và các Thánh
Sử khi viết hoặc giảng, thì chỉ viết và giảng về Chúa Kitô mà
thôi. Cho nên, cả bốn Thánh Sử, cũng như sách Công Vụ Sứ Đồ, và
thư các thánh Phêrô, Phaolô, Giacôbê và Giuđa, chẳng một vị nào
nói về tiểu sử Đức Mẹ, hoặc những đặc ân Mẹ đã được như đặc ân
đầu thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, đặc ân Trinh Khiết Trọn Đời, kể
cả lúc sinh con và sau khi sinh con, đặc ân Đồng Công Cộng Khổ
với Chúa Kitô, đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa, đặc ân Hồn Xác Về Trời,
v.v... Các ngài chỉ viết về Mẹ rất sơ sài, đủ điều để minh chứng
việc Chúa Kitô Nhập Thể làm người trong lòng Trinh Nữ Maria và
được Mẹ sinh hạ, nuôi dưỡng, v.v... mà thôi.
Vì thế, Giáo Hội đã nhiều năm tìm tòi, tra cứu và bàn cãi sôi
nổi về các đặc ân đó, vì không được các Thánh Sử viết rõ ràng
minh bạch trong Thánh Kinh.
Anh chị em có biết tại sao Đức Mẹ đã muốn sống âm thầm ẩn tích
mai danh như vậy không?
Thưa là vì Mẹ yêu mến Chúa tha thiết tận tình, cho nên chỉ muốn
cho Thiên Chúa được vinh danh mà thôi, còn mình thì lu mờ đi.
Và Mẹ đã thường thâm tín và thi hành triệt để lời thánh Gioan
Tẩy giả: "Chúa cần phải nổi lên, còn tôi phải tụt xuống"
(Jn 3:30).
HÃY BẮT CHƯỚC MẸ
CHỈ TÌM VINH DANH CHÚA
Trước khi đề cập đến việc chúng ta cần phải bắt chước Đức Mẹ Maria,
để chỉ biết lo tìm vinh danh Thiên Chúa, tôi xin giúp anh chị
em nhận biết rõ về ba loại công việc chúng ta làm thường ngày
như sau:
Loại thứ I: Các việc chúng ta làm với chủ ý ngay lành, trong sạch,
làm để Thiên Chúa được vinh danh và để lập công đền tội.
Các việc này có công phúc trước mặt Thiên Chúa, đáng Thiên Chúa
thưởng công.
Loại thứ II: Các việc làm vô ý thức, làm như cái máy không hồn,
hoặc như trâu bò, ngựa kéo xe, kéo cày, làm chẳng có chủ tâm,
chẳng có ý hướng gì cả.
Các công việc này vô thưởng vô phạt. Làm vất vả suốt ngày cực
nhọc, mà toi công phúc, chẳng được ích lợi gì cho mình trước mặt
Thiên Chúa.
Loại thứ III: Các việc làm với chủ ý xấu, làm để phô trương, để
được người ta khen, làm với chủ ý tìm hư danh cho mình, cho gia
đình mình, hoặc cho cộng đoàn của mình.
Các công việc này chẳng những mất công phúc, còn làm cho Thiên
Chúa nhờm gớm, vì đã pha kiêu ngạo vào. Đó là làm cho ma quỉ,
làm theo ý ma quỉ xui khiến và chỉ huy.
TÍCH CHUYỆN LÀM CHỨNG
Anh chị em hãy nghe câu chuyện sau đây:
Có một Tu sĩ Dòng Đaminh đi tháp tùng vua Luy nước Pháp sang thăm
nước Palestina. Một hôm, Tu sĩ Đaminh gặp một phụ nữ Công Giáo
thuộc dân Palestina. Tu sĩ thấy phụ nữ này một tay cầm một bình
đầy nước và một tay cầm bó đuốc đang cháy. Thấy hơi kỳ kỳ và lạ
lạ, Tu sĩ cất tiếng hỏi phụ nữ đó, để biết rõ lý do công việc
phụ nữ này sắp làm, thì được bà ta trả lời một cách rõ ràng và
khảng khái:
- Thưa thầy, tôi muốn với bình nước này sẽ dập tắt lửa hỏa ngục
và với bó đuốc cháy này, tôi muốn thiêu rụi Thiên đàng đi.
Thầy Dòng Đaminh ngạc nhiên hỏi:
- Ủa! bà làm như vậy với mục đích gì?
Bà ta mạnh mẽ trả lời:
- Tôi làm như vậy với chủ đích muốn cho hết mọi người sống ở trần
gian phải làm việc vì lòng kính mến Chúa và cho danh Chúa được
vinh sáng, đừng ai làm việc vì sợ Hỏa ngục hay vì mong lên Thiên
đàng.
BA DẤU ĐỂ KIỂM ĐIỂM CÔNG VIỆC
Để nên giống Đức Mẹ, xin anh chị em hãy kiểm điểm các công việc
của mình, dù là việc đạo hay việc đời thường ngày, theo ba dấu
sau đây, để biết rõ chúng ta đã đi đúng ý Chúa và Mẹ chưa:
Dấu thứ I: Sau khi công việc thất bại, chúng ta không bối rối,
trái lại cứ bình tĩnh như thể đã thành đạt. Hễ ai làm mọi việc
vì Chúa, bao giờ cũng được bình tĩnh như vậy. Họ sẽ tự nhủ mình:
Vì Chúa không muốn được kết quả, thì tôi cũng không muốn. Chúa
không hề hỏi tôi công việc có kết quả không, mà chỉ hỏi tôi có
chủ ý ngay lành khi làm việc không?
Dấu thứ II: Khi thấy người khác làm được việc hay, thành công
lớn, cũng vui mừng như thể chính mình làm vậy. Vì ai làm việc
chỉ vì đẹp lòng Chúa, làm cho danh Chúa được vinh hiển, thì họ
làm hay người khác làm cũng coi như nhau cả.
Dấu thứ III: Không ước ao cho người ta ca tụng và cám ơn về việc
mình đã làm. Giả như người ta chê bai, chỉ trích công việc của
mình, cũng vẫn bình tĩnh, vui vẻ và bằng an tâm hồn. Vì họ luôn
tự bảo mình: Tôi làm hết mọi việc để Thiên Chúa được vinh danh
mà thôi.
Anh chị em thân mến,
Là con cái Đức Mẹ, chúng ta hãy nên giống Mẹ, mà muốn nên giống
Đức Mẹ, chúng ta cần phải bắt chước Mẹ.
Sau khi biết rõ Đức Mẹ suốt đời chỉ yêu mến Chúa và làm mọi việc
vì vinh danh Chúa, mỗi người chúng ta thử vấn lương tâm:
Chúng ta có tìm vinh danh Chúa trong mọi việc chúng ta làm thường
ngày không? Hay chỉ tìm hư danh cho chính mình. Làm để được tiếng
khen cho mình, cho gia đình mình, cho đoàn thể mình, hoặc cộng
đoàn của mình?
Tôi xin cống hiến anh chị em một câu chuyện cảm động sau đây:
NHỜ ẢNH MẸ ĐÃ CỨU CẢ GIA ĐÌNH
Cha Ambros Stock thuộc Dòng Biển Đức (OSB tức là Dòng thánh Bênêđictô)
đã kể lại một mẩu truyện thích thú không thể quên được trong đời
quân ngũ của ngài:
"Tôi là một Đan sĩ trẻ, thuộc Đan viện Maria Laach, Tây Đức.
Bị động viên, phục vụ trong ngành y tá. Ngày lễ Hiện xuống năm
1915, đơn vị chúng tôi nhận lệnh di chuyển từ Vallendar, Tây Đức,
sang vùng Champagne, miền Đông nước Pháp. Chúng tôi tới đóng quân
tại một làng nhỏ tên là Falaise thuộc quận Voujers. Ngay từ khi
chiến tranh bùng nổ trong đệ nhất thế chiến, đám thanh niên biến
đâu mất! Trong làng chỉ còn lại ông già bà cả và trẻ em, tất cả
chừng vài trăm người. Ngày Chúa nhật chỉ có vài chục người đi
lễ. Cha sở đã có tuổi, thân hình mảnh khảnh, ốm yếu!
Tới Falaise được vài ngày, một đêm kia, có người kêu tôi đi giúp
một bệnh nhân sắp chết. Bác sĩ trưởng và tôi đi ngay. Đến nơi,
bác sĩ chích cho bà bệnh nhân vài mũi thuốc, nói vài lời an ủi
bà. Bà cụ chừng 65 tới 70 tuổi, mắc bệnh thổ huyết. Tôi nhận thấy
tình trạng nguy ngập của bà liền hỏi bà có muốn mời cha sở đến
làm các phép Bí Tích cho bà không? Bà sợ hãi trả lời trong hơi
thở:
- Nhà tôi là một tên Cộng sản trung kiên, sẵn sàng thủ tiêu bất
cứ ông cha nào bước vào căn nhà này!
Được biết ông ta là một đảng viên Cộng sản trên 40 tuổi Đảng,
tôi hơi nao núng, nhưng tôi trấn tĩnh lại ngay và tính toán rất
nhanh. Tôi phó thác bà ta cho Đức Mẹ và đọc thầm một kinh khấn
xin Đức Mẹ cho bà ta, đồng thời kín đáo giấu dưới gối bà ta một
mẫu ảnh vảy Đức Mẹ Ban Ơn, được bọc kỹ trong miếng vải nhỏ mà
tôi mang luôn trong mình. Rồi tôi ra về và hẹn sẽ trở lại thăm
bà ta.
Hai hôm sau tôi trở lại. Chưa kịp chào thì bà đã ngỏ ý muốn gặp
cha sở. Bà ta và tôi sắp xếp, tìm cách qua mặt ông chồng bằng
cách tôi đi tìm ông ta, thăm hỏi xã giao, rồi xin ông ta đưa tôi
đi thăm bà con một vòng trong làng. Đang lúc chúng tôi đi thăm
dân làng thì cha sở tới nhà bà, giải tội, xức dầu và cho bà rước
Mình Thánh. Một tuần sau bà chết cách êm ái tốt lành. Ông chồng
tự tay chở xác bà ra nghĩa trang. Một mình chôn cất, không cho
ai tham dự, không một lễ nghi tôn giáo.
Ba tháng sau, cũng vào ban đêm, lại có người đến kiếm tôi đi giúp
ông chồng. Bác sĩ trưởng và tôi cùng đi ngay. Ông chồng cũng mắc
bệnh thổ huyết, còn trầm trọng hơn bà vợ. Bác sĩ chích cho ông
ta mấy mũi thuốc. Cho ông ta biết tình trạng quyết liệt của cơn
bệnh. Tôi đã biết ông ta là người thế nào rồi, nên không đả động
gì về đạo giáo cả. Tôi lại giở chiến thuật như đã làm cho bà vợ
là ký thác ông ta cho Đức Mẹ, đọc thầm một kinh khấn xin Đức Mẹ
cho ông ta, và đút nhanh xuống gối ông ta mẫu ảnh vảy Đức Mẹ Ban
Ơn lành bọc trong miếng vải. Rồi tôi cáo biệt ra về. Hẹn sẽ trở
lại thăm ông ta.
Vài hôm sau, tôi trở lại thăm ông ta. Trong câu truyện đàm thoại,
tôi bật miệng nói:
- Ngày mai, cha Tuyên úy Quân đội tới thăm trại, ngài nói tiếng
Pháp rành lắm. Tôi có được phép mời ngài tới thăm ông không?
Ông ta đáp lại rất nhã nhặn, lịch sự:
- Nếu là thăm xã giao thì không cần lắm. Nhưng nếu để tính chuyện
làm hòa với Chúa, trở lại với Giáo Hội, thì không ai hiểu biết
tôi, có thể giúp tôi đắc lực cho bằng cha sở của tôi. Xin ông
mời ngài đến giúp tôi!
Tôi vừa sửng sốt vừa mừng rỡ chạy ngay đi kiếm cha sở, trong lòng
thầm thĩ cám ơn Chúa và Đức Mẹ.
Chưa đầy 15 phút sau, cha sở đã tới giúp ông ta ăn năn thống hối
và xưng tội, lãnh Bí tích Xá Giải và Xức Dầu.
Sau 10 ngày, ông ta đã chết theo bà.
Cả hai đã an nghỉ bên nhau. Và chắc chắn ở bên kia thế giới, cả
hai đã cùng nhau tạ ơn lòng từ bi thương xót và quyền phép vạn
năng của Thiên Chúa qua lời bầu cử đắc lực của Mẹ Maria"
(Trích Nhớ Ơn Mẹ, trang 51-54).
Lạy Mẹ Maria đầy từ bi thương xót, xin Mẹ giúp chúng con biết
yêu mến Chúa và biết làm hết mọi việc dù to dù nhỏ, để danh Chúa
được vinh sáng mà thôi, đừng để cho chúng con tìm hư danh phù
phiếm ở đời này.
Chân thành cám ơn toàn thể anh chị em.
Lm.
An Bình, CMC
|