132.
Thinh lặng
Có một người đã kể về Môsê như
sau: Trước khi được
sai đi lãnh đạo cuộc giải phóng dân
Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập, Môsê đã
đến thọ giáo với một vị thầy
nổi tiếng tại vùng núi Madian.
Qui luật tối thượng mà vị thầy
này buộc Môsê phải giữ trong suốt thời
gian thụ huấn là tuyệt đối giữ
thinh lặng.
Ngày ngày thầy trò cùng nhau ngao du sơn thủy.
Đứng trước núi non hùng vĩ và bao vẻ
đẹp của thiên nhiên, Môsê cảm thấy
không gì dễ và thích thú cho bằng được
ở thinh lặng.
Thế nhưng một hôm hai thầy trò đang
đi dọc theo bờ biển. Môsê thấy một
bé trai đang chơi trong nước, và người
mẹ kêu la cầu cứu inh ỏi. Môsê không thể
giữ mình thinh lặng được trước
một cảnh tượng như thế, ông
cất tiếng hỏi thầy: Thưa thầy,
thầy không làm gì để cứu đứa
bé sao?
Nhưng vị thầy làm dấu bảo thinh lặng
rồi tiếp tục đi.
Môsê bước theo thầy mà lòng không yên chút nào.
Ông cứ nghĩ tại sao thầy mình nhẫn
tâm như thế? Đi được một
đoạn Môsê bỗng dừng lại giơ
tay ra biển và nói với thầy:
Thầy nhìn kià, cả một chiếc thuyền
chở đầy người đang đắm
kià!
Lại một lần nữa Môse được
thầy ra lệnh giữ thinh lặng và tiếp
tục đi, như thế họ không cần
phải quan tâm đến những gì đang xảy
ra trước mắt.
Tâm hồn nhạy cảm của Môsê càng bối
rối thêm nữa, ông đưa chuyện ấy
thưa vơí Chúa và muốn biết tại sao
thầy mình lại cư xử như vậy?
Chúa đã biện minh cho cử chỉ của
thầy như sau:
-Thầy của con hoàn toàn có lý. Đứa bé chơi
với bên bở biển chỉ là một dàn cảnh
để khai mào cuộc chiến tranh khốc
liệt giữa hai dân tộc. Còn chiếc thuyền
đang đắm ngoài khơi là thuyền của
một bọn cướp đang chuẩn bị
tấn công một ngôi làng ven biển.
Thầy của con đã có lý, để giữ
con đứng bên ngoài những hành động
tột ác ấy.
133. Những đồng bạc lẻ
Một người Đức giàu có nọ đến
nghỉ mát tại một ngôi làng nhỏ bên bờ
biển. Dân chúng đa số các ngư dân nghèo
nàn chất phác. Chiều đến người
khác lạ đi vào các hàng quán để đổi
tiền hầu mua thức ăn và chi trả các
thứ cần thiết. Ông vào một quán ăn
nhỏ nhờ người chủ quán đổi
cho ông một tờ giấy bạc 1000 Đức
Mã. Đây là lần đầu tiên người
chủ quán nhìn thấy tờ bạc to như
thế. Ông lắc đầu và nói vơí ông khách
lạ:
Với tờ giấy bạc này, ông sẽ không
mua được bất cứ thứ gì ở
đây đâu. Chúng tôi chỉ trao đổi vơí
nhau bằng những đồng bạc nhỏ
thôi.
Nhiều dân làng bu lại để xem tờ giấy
bạc 1000 Đức Mã. Họ cười, nói
với nhau, làm gì có giấy bạc 1000 Đức
Mã. Những người đứng đường
cũng đồng tình. Họ nói rằng, tờ
bạc lớn nhất mà họ đã thấy
vài ba lần trong đời là tờ 100 Đức
Mã. Thế là dân chúng bắt đâu nghi ngờ người
khác lạ. Đêm hôm đó, từ cửa sổ
quán trọ, ông nghe tiêng bàn tán: "Hắn ta phải
là tên bịp bợm. Trước hết phải
tìm cách tống hắng ra khỏi làng."
Sáng hôm sau, trước khi mặt trời lên, ngươì
đàn ông giàu có đã vội vã đi khỏi phòng
trọ. Ông đi đến một đô thị
nhỏ cách đó gần một ngày đàng và đổi
tờ giấy bạc 1000 Đức Mã ra những
đồng bạc nhỏ. Với tin rằng
ông thực sự có tiền và họ đã tiếp
đón ông tử tế.
134. Lòng tham vô bờ
Một người theo Anh giáo cắm trên miếng
đất của ông tấm biển cógiòng chữ
như sau:
"Miếng đát này thuộc về ai bằng
lòng vơí những gì mình đang có".
Một điền chủ nọ ngày kia đi
ngang qua miếng đất trên. Sau khi đọc
tấm biển, ông tự nhủ: Hiện nay mình
giàu có sung túc, không thiếu gì và mình thấy bằng
lòng; hạnh phúc với cuộc sống hiện
nay, vậy mình có quyền đến nhận miếng
đất này.
Nghĩ là làm. Ông đi gặp ông chủ miếng
đất và nói lên quyết định của
ông. Người chủ hỏi:
-Ông thật sự bằng lòng vơí
những gì mình đang có ư?
Người điền chủ trả lời:
-Đúng tôi rất bằng lòng.
Người chủ bèn hỏi:
-Thế thì tại sao ông còn muốn
miếng đất này để làm gì.
135. Tự mình tạo ra phép lạ
Một trong những cuốn phim của Pháp có
doanh thu cao trong năm vừa qua là phim "Người
mang mặt nạ vàng". Phim được
dàn dựng theo một câu chuyện có thật tại
Mehecô xẩy ra cách đây vài năm.
Tại đây thường xảy ra những
cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó
là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có
thể phục sức tuỳ sở thích và có
thể đeo cả mặt nạ trong khi đấu
võ.
Một linh mục ở nước này tên là Gaêtanô
đang lãnh đạo một nhóm các bạn trẻ
làm công tác xã hội chuyên lo giúp các trẻ em nghèo.
Để có thể thêm tiền cho mục đích
trên, Cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện
ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân hình to lớn, thông đạo
võ nghệ và đầy lòng dũng cảm, mỗi
khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt
nạ vàng để che dấu tung tích của
mình. Ngài thường đấu với những
địch thủ hung hãn nhất. Tất cả
tiền thưởng hoặc thù lao nhận được,
cha đều dành cho qũi cứu trợ của
trẻ em nghèo.
Từ đó, chiếc mặt nạ vàng đã
trở thành biểu tượng cho tấm lòng
vàng của cha Gaêtanô.
Jean Rênô người đóng vai linh mục Gaêtanô
trong cuốn phim nói trên, đã phải đọc
Kinh Thánh và tạo cho mình những tâm tư của
một linh mục để có thể diễn
xuất cách nhuần nhuyễn. Anh đã thổ
lộ:
"Đọc Kinh Thánh cho tôi gặp gỡ được
Thiên Chúa, và nói vơí Ngài những điều mà
trước đây tôi chưa từng nói với
ai".
Lần kia, cậu con trai của Renô hỏi anh:
-Bố ơi, bố có thể tạo
nên phép lạ không?
Anh trả lời:
-Phép lạ chính là những gì con phải
tự mình tạo nên.
136. Hạnh phúc của các bạo chúa
Aritis lấy bạo động mà chiếm được
tỉnh Argos là quê hương bản quán của
ông. Ông là đồng minh của các vị chúa oai
hùng. Vì an ninh của mình, ông nuôi quân rất nhiều
và phàm kẻ nào ở trong tỉnh mà chống đối,
ông giết sạch không tha một mông.
Tuy vậy, ông cũng lo sợ. Ông làm cho người
khác sợ mình bao nhiêu thì chính ông lại lo sợ
bấy nhiêu. Ông không dám để cho các quân thần
hầu được bước vào trong dinh
ông, ông bắt mọi người phải ở
hết bên ngoài.
Tối tối, sau khi dùng cơm chiều xong, ông
lại đuổi hết kẻ hầu ra ngoài.
Ông đi khắp lượt trong cung để
biết chắc không còn một người nào.
Chính ông đích thân đi đóng các cửa ngõ.
Đoạn, ông kêu một cung tần lại, cùng
người cung tần đi vào trong hần kín,
bắc thang đi lên một tầng lầu thật
cao để ngủ. Mẹ người cung tần
phải đứng chờ, cất thang đi,
đem dấu vào một phòng kín khác rồi khoá
các cửa phòng đó lại. Sáng hôm sau, đích
thân bà già âý phải đến mở khoá lấy
thang bắc lên để cho tên bạo chúa xuống.
Vào buồng ngủ rồi, tên bạo chúa kéo giường
chăn cửa ra vào. xem xét cẩn thạn lần
nữa, thực chắc chắn đâu đó rồi
mới leo lên ngủ. . .Thử hỏi giấc
ngủ của một người như thế,
một người mà tận lúc trèo lên giường
để nghỉ ngơi vẫn còn thắc mắc,
lo âu nghi kị như một con vật bị
người ta rình mò. Giấc ngủ đó sẽ
ra sao? Ấy vậy mà người ta gọi ấy
là quyền thế tối cao, là hạnh phúc. Chẳng
biết cái quyền trị dân có thú vị những
gì mà người ta khổ tâm, khổ trí mua lấy
được?
Câu chuyện Cain giết em rồi chạy trốn,
mà bị lương tâm deo đuổi mãi còn đó,
để chứng tỏ rằng lầm điều
ác thì dù có chạy đến sơn cùng thủy
tận tâm hồn cũng chẳng được
yên.
Chỉ những người sống hợp với
lẽ trời, đạo người, chỉ
những người làm đầy đủ
nhiệm vụ của con người mới
có thể tìm thấy sự yên ổn ở trong
lòng mà thôi.
137. Lòng hiếu thảo của
con gái người nữ
tù
Một bà quý phái La mã kia bị kết
án tử hình và bị giam trong ngục tối chờ
ngày chịu tội.
Tên gác ngục có nhiệm phải
treo cổ bà lên, thương tình không nở ra
tay và có ý để bà nhịn ăn rồi cứ
thế mà rạc dần dần đi cho đến
khi chết thì thôi.
Hằng ngày, tên lính cho phép con gái
của bà ấy vào thăm nhưng cấm không
cho mang thức ăn vào, khám xét nghiêm ngặt lắm.
Nhiều ngày qua đi, vậy mà
nữ tù vẫn sống. Người gác lấy
làm lạ, tự hỏi không biết người
nữ tù làm thế nào mà sống dai dẳng như
thế được. Y để ý rình mò và biết
được tất cả sự thật, cô
con gái ngươì nữ tù đã nuôi mẹ bằng
cách đưa vú cho mẹ bú.
Cảm động vô cùng, người
lính bèn đưa chuyện cho những người
hữu trách và chẳng mấy lúc đến tai
toà án. Các quan toà cảm động vì sự hiếu
thảo của cô con gái đã tha bổng cho bà
qúi phái La mã nọ.
Còn cảnh tượng nào cảm
động bằng thấy con gái cho mẹ bú
và vì thế mà người mẹ được
tha. May mà đạo làm người lại lấy
tình thương yêu làm đầu, chứ không
thì nhiều người cho việc này là phản
thiên nhiên.
138. Phép phù thủy
của tên nô lệ
Một tên nô lệ kia cày cấy
một thửa ruộng nhỏ và thu hoạch
được rất nhiều hoa lợi. Nhưng
người chung quanh cày thửa ruộng lớn
hơn mà không thu hoạch được nhiều
bằng anh, thấy thế sinh lòng đố kỳ.
Họ vu cho anh đã dùng phép phù thuỷ để
cướp hoa lợi của những thừa
ruộng chung quanh.
Anh nô lệ bị ra tòa. Toà bắt
anh phải kể tội ác cuả anh ra. Sợ
quá anh nô lệ bèn kéo cả nhà ra toà. Cả nhà
anh ta khóc lóc, ăn mặc cẩn thận, diêm
dúa. Anh ta lai đem theo cả những con bò béo
tốt với các nông cụ như lưỡi
cày sắc bén. Nhưng cái liềm bỗng lộn,
những cái bừa chắc chắn. Anh ta ra trước
toà. Chỉ vaò vợ con và các nông cụ của
anh và bảo:
“Hỡi ngưòi La mả, đây
là phép phù thuỷ của ta đây! Mùa màng ta tốt
là do những thứ này. Ấy là chưa kể
ta không mang theo được những đêm thức
khua, những ngày dậy sớm. Những năm
tháng một nắng hai sương, những buổi
làm việc cần cù và đôỉ bát mồ hôi
lâý bát cơm.
Toà tha cho tên nô lệ. Muà màng tốt
do người ta chịu khó làm việc vất
vả. Vì thế người La mã cổ vẫn
thường hay nói “Con mắt của người
chủ làm cho ruộng phì nhiêu”
139.
Con Vua Crésus Lại Nói Được
Crésus vua xứ Lydie có một người con trai
câm. Hoàng tử đã lớn rồi mà vẫn
không nói được một tiếng nào, mặc
dù đã chữa chạy đủ mọi mặt.
Ai cũng cho là hoàng tử sẽ câm suốt đời.
Đến khi tỉnh Sac bị dân Ba tư chiếm
được, vị hoàng tử đó đứng
kề nhà vua, lúc quân xâm lưng tiến vào thành.
Bỗng đau có một tên lính không biết mặt
vua, tuốt gươm ra định chém ngài.
Hoàng tử thấy cha bị lâm nguy, hết sức
cố gắng để bảo tên lính kia chớ
nên làm như vậy. Và hoàng tử bật
ra được câu nói: "Hỡi tên lính,
chớ có hạ sát vua Crésus!".
Tên lính tra gươm vào vỏ rồi bỏ đi.
Hoàng tử đã nói được chỉ vì muốn
cứu cha khỏi chết. Từ đó, hoàng
tử cũng nói bình thường như người
ta.
Truyện này không có chỉ là hoang đường.
Khoa học bây giờ vẫn đem lại cho
chúng ta những ví dụ người câm bật
nói lên được, người mù vì tin tưởng
vào một sức mạnh huyền bí nào đó
đã xem thấy được.
Đức tin và lòng hi vọng là hai liều thuốc
nhiều khi chữa khỏi được những
chứng bịnh nan y. Chỉ những kẻ
không hi vọng, không tin tưởng mới thất
bại ở đời.
140.
Chuyện Hai Con Ngựa
Quân lính của Sertorius háo chiến quá mất rồi,
một hôm nhất định xin ra trận.
Sertorius biết rằng không thể ngăn chận
họ được nữa, bèn cho dắt hai
con ngựa đến trước mặt họ.
Một con khỏe mạnh, mập mạp, một
con ốm o gầy còm.
Rồi
ngài ra lệnh một thanh niên cường tráng
phải rút một cái mà tụt đuôi con ngựa
ốm, còn ông già khác thì nhổ từng cái lông đuôi
của con ngựa khỏe.
Chàng thanh niên cố rút thế nào cũng không nhổ
được cái đuôi con ngựa ốm, ai
trông thấy cũng tức cười. Nhưng
ông già nọ thì tuy tay chân run rẩy mà cứ nhổ
từng cái lông một, cuối cùng cũng thành
công.
Thấy quân lính ngơ ngác không hiểu ra sao, tướng
Sertorius nói:
-Quân địch của ta y như cái
đuôi ngựa, nếu ta đánh nó từ từ,
từng khoảng một, ta có cơ thắng nó,
nhưng nếu ta đánh một lúc, chẳng đi
đến đâu cả.
141.
Quân Ăn Trộm Ngựa
Tần Mục Công đi săn ở núi Lương
Sơn. Đang đêm, bị quân gian vào lấy
cắp một con ngựa, Tần Mục Công sai
người đi tìm, tìm đến chân Kỳ
Sơn, thấy có một bọn hơn trăm
người đang tụ tập nhau ăn thịt
ngựa, bèn quay về xin Mục Công đem người
đến vây bắt cả bọn.
Tần Mục Công nói:
-Không nên, ngựa đã chết rồi,
nay ta đem quân đến giết người
nữa, dân sẽ bảo ta quí ngựa hơn người.
Nói xong, truyền đem mấy hũ rượu
ngon đến cho bọn trộm ngựa mà bảo
rằng: "Chúa công chúng tôi thấy các người
ăn thịt ngựa mà không có rượu sợ
kém ngon, nên cho chúng tôi mang rượu đến
cho các người dùng."
Bọn trộm ngựa thấy vậy bảo
nhau:
-Biết chúng ta ăn trộm ngựa,
chúa công đã không trừng phạt mà còn đem
rượu cho nữa, bao giờ chúng ta đền
được ơn này?
Ít lâu sau, Tần Mục Công đem quân đi đánh
nước Tấn, Bị quân Tấn vây khốn.
Bỗng có một bọn dũng sĩ hơn 300
người đến giải vây. Hỏi
ra mới biết đó là bọn trộm ngựa
năm xưa.
|