[BẢN THẢO]
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG MỘT
LINH MỤC GIÁO PHẬN TƯƠNG LAI
sỐng TỐT đỜi SỐNG đỘc thân LINH MỤC
TRONG BỐI CẢNH GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
(tiếp theo)
E. KHÍA
CẠNH TÂM LÝ VÀ TÍNH DỤC TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
E.I.
NhẬn đỊnh tỔng quát
Tự nhiên,
chúng ta được tự do một phần trong sự chọn lựa sử dụng ý muốn, lý trí hầu có thể
làm chủ bản thân, điều khiển chính mình đến một đối tượng khao khát nhằm mục
đích tối hậu là được biến đổi trong Chúa Kitô thành một lời đáp trả trọn vẹn với
ân sủng và hội nhập vào chính cuộc sống mình.
Bản thân (Cái
Tôi) mỗi người là điểm gặp gỡ của Tâm lý học và Thần học: Như những con người,
chúng ta đáp lại Thiên Chúa qua các định luật tâm lý mà Ngài đã ghi khắc trong
chúng ta. Trong tiến trình đáp trả đó, chúng ta bị thách đố đặt trật tự vào cuộc
đời chúng ta như thánh Augustinô nói: “Nhân đức là tình yêu có trật tự”.
Nhưng khi tình yêu bị rối loạn (mất trật tự), chúng ta nhận ra qua các dấu hiệu
này: sự đi trệch định hướng cuộc đời và tìm tự tôn vinh mình.
Các cấp độ của
Cái Tôi được mô tả qua bốn vòng tròn đồng tâm :
-
Vòng
ngoài cùng: Thế giới, các thực tại bên ngoài (tha nhân, xã hội, tạo thành, các
biến cố …);
-
Vòng kế
tiếp: Thân xác – tâm sinh lý;
-
Vòng
tiếp theo: Tâm thể - tâm lý xã hội;
-
Vòng tâm:
Tinh thần con người – tâm lý tinh thần hay tinh thần hữu lý, gồm có:
·
khả
năng hiểu biết - cảm nhận - trực giác - tưởng tượng – ký ức – ý muốn;
·
Khả
năng cho các nhân đức như tình yêu – tha thứ - niềm vui - nhẫn nại …
“Chỉ có người
có khả năng làm chủ mình có thể trở thành một quà tặng cho kẻ khác, một quà tặng
cho Chúa trọn vẹn đến đỗi người ấy thành chiếc bình trong suốt cho ánh sáng của
Chúa chiếu qua” (J. Riddick)
Cái Tôi có
hai định hướng:
Định
hướng sai lầm:
Tình yêu cho thế gian… một đời sống trống rỗng “Anh em đừng yêu thế gian và
những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến
Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của
đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa
Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của
nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi” (1 Ga 2,
15-17). Cái nổi bật trong định hướng sai lầm này là tính chất trần tục: khoái
lạc, của cải, địa vị / quyền lực.
Định
hướng đích thực:
Sự sống dồi dào “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi,
tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Cái nổi bật trong
định hướng đích thực này là sự sống trở nên giống Chúa Kitô trong các thiên
hướng, thái độ, nhân đức dẫn tới lời mời gọi của mọi tín hữu.
Cuộc chiến
đấu:
Chúng ta trải nghiệm những sức lôi cuốn và thúc đẩy đến từ hai hướng đối nghịch
nhau: cái tôi bị thống trị bởi các nhu cầu và cái tôi bị thống trị bởi các giá
trị. Ơn gọi vào đời sống thánh hiến là triệt để đi theo Chúa Giêsu. Đó là lời
kêu gọi tới một sự biến đổi con tim nhân loại qua các Lời Khuyên Phúc Âm.
Mỗi người
sống kinh nghiệm ơn gọi đều trải qua kinh nghiệm sống cái tôi của mình, hoặc đặt
trọng tâm nơi mình hoặc đặt trọng tâm nơi Chúa, mà có định hướng đúng hay định
hướng sai lầm:
·
Định
hướng sai lầm đi theo hình ảnh cái Tôi:
khoái lạc, sở hữu của cải, địa vị/quyền lực.
·
Định
hướng đích thực họa theo hình ảnh Thiên Chúa:
Thanh Khiết, Khó Nghèo, Vâng Lời.
·
Chiến đấu:
Trong cả hai định hướng này, chúng ta kinh nghiệm sự có mặt của những thúc đẩy
của con người tự nhiên: vui thích, tăng trưởng, cho đi và lãnh nhận.
E.II. NĂM
ĐỊNH LUẬT TÂM SINH LÝ NAM NỮ
E.II.1 Luật
Ưu Tiên
Nơi người nữ:
trái tim ưu tiên. Điều ưu tiên là một quả tim, một tình cảm. Một trái tim muốn
được hòa nhịp với trái tim khác, một tình cảm tha thiết muốn hiến trọn cho người
mình yêu. Nó ẩn chứa một cái gì thanh nhã trong đó: Người nữ muốn mang đến cho
người mình yêu một trái tim muốn yêu và muốn được yêu đến cực độ.
Nơi người nam,
thể xác ưu tiên. Khi người nam nghĩ đến người nữ thường hình dung tới thân hình,
đường nét, sắc diện thể chất… Do đó, đứng trước một thiếu nữ đẹp, người thanh
niên sẽ thấy thể xác xúc động trước, rồi sau đó tình cảm và trái tim mới hoà
nhịp theo. Người nam dễ bị lôi cuốn bởi thể xác người nữ, và thường mau chóng
hướng tới việc kết hợp thể xác.
Sự sai biệt
này có thể gây nên những khó khăn, những nguy hiểm...
Người nữ dễ
dàng bị chinh phục bằng tình cảm: nể nang, tội nghiệp, thương hại…, để rồi dễ
dàng mất tự chủ trước tiếng gọi của con tim, đưa đến nguy cơ nhượng bộ đòi hỏi
thể xác của phái nam. Trái lại, người nam dễ bị chinh phục bởi những đường nét
duyên dáng nơi thân xác người nữ, khó lòng tự kiềm chế và thường đòi hỏi mau
chóng kết hợp thể xác, coi đó như một bằng chứng tình yêu.
Người nữ nên
để ý điểm này để tránh những nhượng bộ gây lỡ làng, với hậu quả đáng tiếc khiến
phải ân hận suốt đời. Còn người nam nên để ý điểm yếu của mình để làm chủ bản
thân, kính trọng người nữ, hiểu rằng người nữ nặng về tình cảm, sự săn sóc ân
cần tế nhị, lời âu yếm, cử chỉ thân mật, dịu dàng, kính trọng. Do đó, người nam
đừng quá chú ý tới thể xác hoặc vội vàng đốt giai đoạn trong khi gần gũi với...
Người nữ dễ bị
chi phối bởi tình cảm, tính nhẹ dạ hay thay đổi, ít óc lý luận và thường hướng
về hành động mau chóng của trực giác... Người nữ hãy thận trọng trước những xúc
cảm đầu tiên hay trước hành động của mình, đừng nghe lời dỗ ngọt của người nam
mà dễ dàng nhượng bộ: “Chuông già đồng điếu chuông kiêu, anh già lời nói em
xiêu tấm lòng”
Người nữ hãy
lưu ý tới óc lý luận của người nam, có khi rất ngụy biện để đạt mục đích (vd yêu
cho tới bến để có kinh nghiệm mà tu cho chắc!), và cũng đừng theo tình cảm nhiều
khi rất mâu thuẫn của mình (có mà nói không hay ngược lại). Người nam không cãi
lý với phụ nữ, nhưng tìm cách khơi dậy tình cảm, lòng trắc ẩn của người nữ để
thành công. Người nữ biết tâm lý đàn ông như vậy thì nên thực tế, đừng quá lý
tưởng hay dại dột.
E.II.2 Luật
Phân Cách
Trái tim người
nữ chỉ có một ngăn và dành hết cho tình yêu. Trái tim người phụ nữ có thể nói là
một toàn thể dành hết cho người mình yêu, không có phân cách. Mối tình dành cho
người yêu chiếm hết trái tim chị. Chị chỉ nghĩ đến anh, sống chỉ vì anh, sống để
yêu và được yêu. Vì thế khi không yêu nữa thì lập tức anh bị tống khứ hoàn toàn
ra khỏi trái tim chị, và đứa con hoặc nhân tình sẽ thay thế. Hai mối tình không
thể chung sống hòa bình (đánh ghen, và có khi đánh ghen rất dại và ngông cuồng,
đến tàn bạo bất nhân). Tình yêu chi phối mọi hoạt động. Đó là đặc điểm trái tim
phụ nữ.
Trái lại, các
chuyên gia tâm lý nói trái tim người nam thì lại khác: rắc rối, nhiều chuyện, có
tới 4 ngăn và các ngăn ấy hoàn toàn biệt lập nhau, khiến cho người nữ không hiểu
nổi:
·
Ngăn
thứ nhất: dành cho vợ. Anh yêu vợ và khi ở với vợ là không nghĩ tới gì khác.
·
Ngăn
thứ hai: dành chỗ quan trọng cho sự nghiệp, địa vị. Có nhiều người vì sự nghiệp
mà quên cả vợ con, gia đình.
·
Ngăn
thứ ba: dành cho những việc anh làm vì sở thích, vì lý tưởng, chính trị, xã hội,
giáo dục…
·
Ngăn
thứ tư: dành cho giải trí, nghỉ ngơi.
Người nữ hãy
an tâm tin rằng anh yêu chị, thương gia đình. Đừng thấy anh say mê những công
việc khác mà nghĩ rằng anh thờ ơ với gia đình, rồi đâm ra nghi ngờ, khó chịu.
Trái lại, hãy tập cảm thông với anh, chia sẻ với anh và trong mọi lúc hãy tươi
cười đón anh, lo âu với anh, an ủi anh và khuyến khích anh. Đừng ngăn cấm hoặc
cản trở công việc của anh.
Anh không nên
bắt chị phải theo những hoạt động anh thích, và phải chừng mực trong công việc.
Nếu được, nên để chị tham gia công việc với mình. Biết đền bù bằng lời nói, thái
độ, cử chỉ yêu thương, hành vi phụ giúp công việc của chị. Nhớ rằng chị coi
trọng gia đình hơn nghề nghiệp, quan tâm đến con người hơn công việc.
E.II.3 Luật
Thính Giác
Người nữ có lỗ
tai to. Chị không chỉ là một trái tim mà còn là một lỗ tai to, một lỗ tai to gắn
liền với trái tim. Những gì vào lỗ tai rơi thẳng ngay vào tim. Do đó chị có
nhược điểm này: thích nghe và dễ tin những điều người ta nói. Chị dễ tin những
lời tán tỉnh, dịu ngọt; dễ chú ý đến điều người ta nói hơn là việc người ta làm:
“Chuông già đồng điếu chuống kiêu, anh già lời nói em xiêu tấm lòng!” Chị muốn
được yêu bằng những lời âu yếm dịu dàng tâm sự. Chị thích NGHE. Anh làm những
công này việc nọ giúp chị mà không nói gì, chị vẫn cho là anh không thương chị
hoặc chưa thương trọn vẹn.
Trái lại,
người nam lại ngắn hay thiếu cái lưỡi. Ở quán xá hoặc ở những nơi khác anh nói
thao thao bất tuyệt về những chuyện chính trị, xã hội, nghề nghiệp… vì những
chuyện đó có tính cách chung chung, vô thưởng vô phạt. Còn ở nhà thì ngược lại:
anh câm như hến, ít nói, trầm ngâm, vì anh không thích những chuyện vụn vặt, chi
tiết. Anh ngại tâm sự, bộc lộ có đụng chạm tới bản thân mình.
Nhưng sự im
lặng thường tạo nên bầu không khí nặng nề cho cả hai. Vì thế, anh thích ra quán
cà phê hay đến một nơi vui nhộn; còn chị thích la cà bên nhà hàng xóm để chuyện
trò “ngồi lê đôi mách”, “vuốt râu ông nọ đặt cằm bà kia”… Do đó phải có đối
thoại, trao đổi, sẽ tránh được những nghi ngờ, hiểu lầm, xích mích. Yêu là nói
và nghe. Anh nghe chị tâm sự, nói chuyện nhà cửa, gạo cơm, con cái, bạn bè… Chị
nghe anh nói chuyện về chính trị, xã hội, thể thao…
Yêu là đối
thoại, là mở tâm hồn và lý trí để cùng đón nhận, tham dự, chia sẻ tâm tình của
nhau. Anh phải tập nói, phải phá tan bầu không khí nặng nề trong gia đình. Anh
phải nói những lời yêu thương,… Nhắc lại những kỷ niệm đẹp, êm đềm ngày trước,
vì chị thích sống lại những quá khứ đẹp.
Anh phải nói
với cung điệu nhẹ nhàng ôn tồn. Những gì anh nói với giọng dịu dàng, âu yếm,
kính trọng, chị sẽ cho là đúng, chị sẽ chấp nhận. Những gì anh nói với giọng gắt
gỏng, khó chịu hoặc khinh khỉnh, chị sẽ cho là sai, khó chấp nhận mặc dầu đó là
những điều đúng. Vậy khi phải chỉ trích, xây dựng những khuyết điểm của chị, anh
phải áp dụng như thế; đừng bao giờ chê trách hoặc chế diễu chị, nhất là trước
mặt người khác.
E.II.4 Luật
Chi Tiết
Người nữ để ý
đến các chi tiết, hay chú ý đến những cái cỏn con của sự việc, thích những mẫu
tin vụn vặt. Người nam quan tâm đến điều cốt yếu, chỉ nhớ đến những nét đại
cương, những chuyện đáng để ý, lại thích những tin chính trị, xã hội, quốc sự…
Sự sai biệt
tâm lý này là nguyên do nhiều vui buồn, đau khổ :
Chị chú ý,
quan sát và nhớ kỹ những chi tiết trong đời sống của anh, của gia đình trong khi
anh ít để ý và hay quên. Chúa sinh ra chị có giác quan nhạy cảm về chi tiết để
chị có khả năng chu toàn sứ mạng làm vợ, làm mẹ, săn sóc gia đình, nuôi con… đòi
hỏi phải làm bao nhiêu việc nhỏ, bao nhiêu chi tiết. Một việc nhỏ cũng làm chị
bực mình, đau khổ. Một quên sót của anh đối với chị làm chị buồn tủi, giận dữ,
nghi ngờ.
Anh thường dễ
bực bội, cáu kỉnh khi chị hay than phiền về những chuyện nhỏ nhặt, hoặc khó chịu
khi thấy chị hay dò xét… Hiểu như vậy, chị hãy rộng lượng với anh, thông cảm với
những dự tính công việc, những sinh hoạt hoặc giao tế của anh. Vì thế anh hãy
chịu khó để ý đến chị, nhẫn nại nghe chị nói, dầu là những chuyện nhỏ mọn. Hãy
lợi dụng những cơ hội, những chi tiết làm chị vui: quà tặng ngày sinh nhật,
những ngày vui buồn của chị, một lời khen, một quan tâm, một giúp đỡ… Cả hai
phải biết rằng Yêu là nghĩ đến người yêu và tìm hạnh phúc cho người yêu.
E.II.5 Luật
Bất Đồng Cảm
Người nữ phản
ứng chậm, nhưng kéo dài. Trong phạm vi tình cảm, người nữ như một trái bom nổ
chậm. Chị không phản ứng cùng lúc, nhưng sau anh. Tuy nhiên khi đã xúc cảm thì
nỗi cảm xúc ấy kéo dài hơn anh. Người nữ như một đầu máy xe lửa: chuyển bánh
chậm, khi có đà đi rất nhanh, nhưng ngưng lại chậm.
Người nam phản
ứng nhanh, nhưng cũng mau dứt. Nơi người nam, tình cảm chóng bộc phát mà cũng
chóng nguội tàn. Vì vậy mà “cú sét ái tình” thường xảy ra nơi thanh niên hơn nơi
thiếu nữ. Trong mọi việc, anh hãy kiên nhẫn, chờ đợi, chuẩn bị... Trong tình yêu
thân mật cũng vậy: tránh những cử chỉ vội vàng, hấp tấp, mà nên dịu dàng, tế nhị.
Hiểu biết định luật tâm lý này để biết tha thứ cho nhau, tránh những xích mích
nghi kỵ.
Tóm lại, những
định luật vừa nói trên không áp dụng riêng rẽ nhưng bổ túc, liên hệ với nhau và
là những định luật rất quan trọng chi phối đời sống nam nữ. Nhưng đó không phải
là tất cả những sự khác biệt, bởi mỗi cá nhân là một “huyền nhiệm” không dò thấu.
Những định luật này rất hữu ích để giúp bạn hiểu được người kia và khi nắm vững
được những khác biệt tâm sinh lý này, bạn sẽ tránh được những phán đoán, những
thái độ chủ quan thường đưa đến bất hòa, đổ vỡ, thua thiệt.
(Slideshow Truyền thuyết tạo dựng người nữ)
E.III.
VẤN ĐỀ THỦ DÂM
E.III.1
Định nghĩa và
thực trạng
MASTURBATION:
Manus (tay) – Turbatio (kích thích). Thủ dâm là dùng tay kích thích bộ phận sinh
dục để tìm đạt được khoái cảm sinh dục. Sau hành động thủ dâm, phần đông cảm
thấy ngượng ngập, mặc cảm tội lỗi, lo lắng, chán nản, hận mình.
Thủ dâm được
thực hành khá phổ biến, cả nơi những người có gia đình, nhất là nơi người độc
thân trẻ, có người coi như không có gì sau hành động ấy, còn người khác lại bị
lương tâm ray rứt vì hành động tính dục đơn độc riêng tư và do căng thẳng trầm
trọng này (x. Giải mã giấc mơ tình dục).
Thủ dâm có thể
xảy ra cùng với những liên hệ khác tính luyến ái (KTLA) hay đồng tính luyến ái (ĐTLA):
làm cho mình, làm cho người khác và để người khác làm cho mình. Có người coi thủ
dâm là sự dữ nhỏ hơn trong hai sự dữ (minus malum): cái thay thế cho hoạt động
ĐTLA hay KTLA; hoặc để điều hướng cái tôi của mình hơn là dính líu với trẻ em
hay một người nào đó.
Thủ dâm không
kéo dài suốt đời người độc thân, cũng như giao hợp không kéo dài suốt đời người
có gia đình (x. St 18,12: Sara cười thầm tự bảo ‘Mình đã cằn cỗi rồi còn tìm
lạc thú nữa sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!). Đó là một cuộc chiến đấu
và phải đi vào cuộc chiến đấu ấy: Bỏ được là lý tưởng, để việc tận hiến cho Chúa
được chu toàn và hoàn toàn trao hiến cho Chúa.
Cầu nguyện cho
bỏ được thủ dâm như một phần cần thiết cho tăng trưởng và phát triển con người,
cũng như trong cuộc sống và sứ vụ ơn gọi. Quả thế, nếu một mình mà không làm chủ
và thắng vượt được chính mình, thì làm sao có thể làm chủ và thắng vượt được khi
gặp phải hoàn cảnh éo le hai người khác phái cùng tác động lên nhau!
Ngày sáu
khắc êm trôi lặng lẻ, Chúa ngăn ngừa chẳng để phút giây, Tay chân miệng lưỡi
hình hài, Buông theo tội lỗi mà đầy bợn nhơ.
Thánh Thi Kinh
Sáng Thứ Năm Tuần I TN
E.III.2
Các loại thủ
dâm
·
Thủ
dâm trẻ nít:
Trẻ, trước
tuổi dậy thì, tìm khám phá cơ thể, trong đó có vùng sinh dục của mình, như một
phần tăng trưởng bình thường.
·
Thủ
dâm thiếu niên:
Xảy ra trong
tuổi dậy thì và đa số trường hợp thủ dâm thuộc thời kỳ này.
·
Thủ
dâm trưởng thành:
Loại thủ dâm
này phổ thông với người trưởng thành (người độc thân, người chưa kết hôn tránh
giao hợp trước hôn nhân) và như một lối thoát căng thẳng.
·
Thủ
dâm xúc phạm:
Chọn bộ phận
sinh dục để giao hợp “một mình.” Có tính cách tác hại vì phân rã hơn là hiệp
nhất nhân vị.
E.III.3
Nguyên do và mục tiêu
·
Do ngứa
ngáy (phimosis - chít hẹp bao da quy đầu gây viêm nhiễm ngứa ngáy phải gãi liên
tục); buồn chán, lo lắng, tâm trạng vở mộng, cô đơn.
·
Lối
thoát dễ dàng để xả căng thẳng.
·
Thay
thế cho quan hệ tình dục.
·
Đối phó
và trốn thoát sự thân mật tính dục liên nhân vị.
·
Bắt im
lặng lời mời gọi vào tình dục yêu đương liên nhân vị.
E.III.4
Những thỏa hiệp
·
Sợ
đàn bà:
Không muốn bị liên lụy tình dục hay tình cảm với đàn bà (sợ hậu quả), hay vì
không được liên hệ với đàn bà, nên tìm thỏa hiệp với những hình thức tính dục
khác (đồng tính ái), gây nên một tâm lý tính dục thiếu trưởng thành.
·
Sách
báo, phim ảnh khiêu dâm nhằm
kích thích tính dục do:
-
miêu tả các đối tượng và những tình cảnh gợi tình (tác
phẩm, hình vẽ, điêu khắc, trình diễn…)
-
mô tả sự lạm dụng phụ nữ (nếu không tàn bạo thì cũng xuống
cấp) và vì vị nễ mà chìu, rồi sau đó cứ bị ám ảnh.
-
đồi trụy: phá hoại phẩm tính tương quan tính dục, đưa tới
khai thác và kinh doanh tính dục, lạm dụng tình dục trẻ em.
-
Bù trừ: nhòm lỗ khóa/nhìn chỗ kín/thích xem phim khiêu dâm,
nhất là giới nam (mở đầu/tăng cường hoạt động tính dục, thủ dâm, lạm dụng trẻ
em).
·
Phô
bày bộ phận sinh dục
của mình (cho người khác phái) để được khoái lạc tính dục bởi sự nhìn xem phản
ứng của người kia.
·
Mặc
y phục của người khác phái,
thay thế vai kề vai với người khác phái mong ước, rồi thủ dâm để xả căng thẳng.
·
Hành
động thú tính:
ham muốn và thực hiện tính dục với súc vật.
·
Bạo
động với chính mình
(thường là phái nam) để bảo vệ độc thân: Origène; nhiều vị tử đạo sẵn lòng chịu
chết để bảo vệ trinh tiết/đức tin: hai cha truyền giáo ở Lào.
E.III.5 Một số quan điểm
·
Freud và William Fleiss:
Thủ
dâm là biểu hiệu bệnh thần kinh phổ quát, có thể có hậu quả đáng tiếc.
·
Fenichel:
Thủ
dâm là triệu chứng bệnh hoạn, là khả năng làm thỏa mãn bị xáo trộn.
·
Những biện pháp vô nhân đạo:
Mang
giây lưng thanh khiết hành xác, thiến hoạn (nam) và cắt bỏ âm vật (nữ).
·
Xã
hội học và tâm lý học hiện đại:
Thủ
dâm là phát triển bình thường vào một thời kỳ nào đó trong đời người, dẫn tới sự
chín mùi tâm lý tính dục lành mạnh; là tiền thân của ứng xử tính dục liên nhân
vị.
·
Quan
điểm của Giáo Hội:
Trước Vaticanô: thủ dâm là điều xấu trầm trọng và là trọng tội, vì vi phạm bản
tính tự nhiên và ích kỷ. Huấn thị của Bộ Giáo lý Đức Tin, “Tuyên bố về một số
vấn nạn liên quan đến đạo đức tính dục”: Thủ dâm là một hành vi bóp méo và trái
ngược của khả năng tính dục, là sự thiếu trưởng thành, thiếu quân bình tâm lý,
và do thói quen. Thủ dâm không luôn luôn là lỗi nặng, nhưng vẫn là nguồn mặc cảm
tội lỗi và lo lắng.
E.III.6
Tiến trình phát triển lành mạnh
·
Trẻ
khám phá
hết mọi chỗ trong cơ thể nó, trong đó có vùng bộ phận sinh dục: tiến trình tăng
trưởng bình thường (x. Chuyện hai bà mẹ tắm cho con: “Con gái dở quá, có một cái
mà cũng làm vỡ” – “Sao con không có một cái như thằng đó?”)
·
Trò
chơi sinh dục/Táy
máy chân tay (do liên hệ khắng khít mẹ/con, cha/con) thiết lập ý thức về bản
thân. Bé trai có ý thức nhạy bén về khả năng cương cứng đưa tới làm chủ bản
thân, đụng chạm dương vật để tự trấn an.
·
Chưa
trưởng thành:
Thủ dâm là một hoạt động tính dục thiếu trưởng thành, nhưng trẻ dùng thủ dâm để
học điều khiển bản năng tính dục của nó (chơi đùa có tính chất thăng hoa mà thủ
dâm không có: “thi xịt nước”).
·
Can
thiệp khôn khéo:
Nếu bắt trẻ chận đứng thủ dâm cách không khôn khéo, nó sẽ có ý tưởng rằng tính
dục là xấu xa và nguy hiểm, khiến trẻ có thể bị chứng loạn thần kinh chức năng
và biến dạng nhân cách.
·
Can
thiệp thiếu thích hợp:
Những cấm kỵ thủ dâm có thể đưa tới những hình thức bệnh hoạn. Nhưng nếu thủ dâm
với lương tâm xấu và lo lắng cũng đưa tới hậu quả bệnh hoạn và tội lỗi.
E.III.7 Hướng dẫn hữu hiệu và
chữa lành
·
Quan
tâm thích đáng:
Phải khảo sát tỉ mỉ trong một khung cảnh rộng lớn hơn, (tiểu sử gia đình, cá
nhân đương sự để tìm biết những động lực sâu hơn), chứ không phải chỉ là nhục
dục (bệnh cơ quan sinh dục cần chữa trị bằng y khoa; chớ gì có nữ tu bác sĩ
chuyên ngành phụ khoa cho các nữ tu)
·
Lắng
nghe để hiểu:
Phải lắng nghe chăm chú và nhạy cảm đối với người có những hình ảnh tưởng tượng
kèm theo thủ dâm (trước và sau)
·
Nhìn
lại để thương:
Thủ dâm là cách thức dễ dàng để làm dịu sức ép và căng thẳng. Do đó phải khảo
sát những nguồn sức ép và căng thẳng để tiêu diệt/giảm thiểu chúng: ăn một thực
đơn cân bằng, nghỉ ngơi và giải trí thích hợp.
·
Đừng
vẽ đường cho hươu chạy:
Những phơi bày thái quá trước những kích thích tính dục thường thúc đẩy thủ dâm.
Do đó, tránh những kích thích đó sẽ giảm thiểu tính thường xuyên của thủ dâm.
·
Tự
chủ và liên đới:
Tập tự chủ bản thân; mở rộng liên hệ với người khác (không chỉ qui về mình và
yêu mình). Phải phát triển những tình bạn sâu xa với nhiều người nam lẫn nữ,
đừng để bị sự cô lập xã hội và khó khăn trong các mối tương quan dồn ép.
·
Tìm
kiếm sự bình an:
Không nên để bị tâm trạng lo lắng trầm trọng xâu xé, mà nên tìm chữa lành và
bình an qua việc xưng tội.
·
Nhìn
vào lý tưởng:
Từ bỏ gia đình vì Nước Trời là sự thăng hoa bản năng tính dục: hãy thành thật
nhìn nhận thất bại: [Hai sức mạnh đối nghịch hằng giao chiến trong tôi khiến
những điều tốt tôi muốn làm tôi lại không làm được và những điều xấu tôi không
muốn làm thì tôi lại làm. Ai cứu tôi khỏi cái xác hay chết này? – Ơn Ta đủ cho
con] (x. 2 Cr 12,7-9)
·
Trợ
lực cảm thông:
Tình bạn chia sẻ đem lại khuây khỏa và nâng đỡ chống lại chiến đấu bên trong và
áp lực bên ngoài. Đã có chiến đấu là có chiến thắng và chiến bại. Hãy lấy thất
bại làm bài học chiến thắng: thua keo này bày keo khác! [“Ai từng chiến thắng mà
không hề chiến bại? Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần? Nhưng đây chưa phải trận
sau cùng chiến đấu!”]
·
Chia
sẻ chữa trị:
Thái độ mới thích hợp của việc điều trị nhóm: Những tình bạn sâu sắc khiến người
ta cởi mở chia sẻ những cuộc chiến đấu, công khai nhìn nhận mình thủ dâm, nhóm
không bối rối hay bình luận tiêu cực gì, là một nâng đỡ rất lớn trong việc hội
nhập tính dục với tu đức, thăng tiến đời sống thiêng liêng.
·
Trợ
giúp thiêng liêng:
Tính dục là một chiều kích của đời sống con người ảnh hưởng đến cuộc hành trình
thiêng liêng một cách sâu xa. Những can thiệp thiêng liêng cũng ảnh hưởng trên
tính dục một cách sâu xa. Sự trợ giúp thiên liêng là một hợp lực, một khí cụ
hùng mạnh trong việc biến đổi sự yếu hèn và chán nản của con người: “Hãy tỉnh
thức và cầu nguyện...”
Do đó, phải khuyến khích chạy đến với sức mạnh của cầu nguyện, của các
bí tích, của khổ chế, của việc linh hướng thường xuyên.
Xin thương bảo vệ hương thanh khiết, Sợ lúc đêm về giữa cô đơn, Lợi dụng tối tăm
thần quỷ quyệt, Phóng tên ác độc giết tâm hồn. Che chở trí lòng luôn thoát
khỏi, Dục tình cường bạo cứ đuổi theo, Và muôn cảm nghĩ đầy tội lỗi, Cho mảnh
hồn thiêng mãi yêu kiều.
Thánh Thi Kinh Chiều Thứ Ba Tuần IV TN
·
Ý
thức cam kết ơn gọi:
Chú tâm sống cam kết độc thân, rèn luyện tỉnh thức, điều độ.
·
Sức
mạnh của lời cầu nguyện:
Dĩ nhiên phải luôn khiêm tốn cầu nguyện. Chúa Giêsu dạy: “Các con hãy tỉnh
thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ, tinh thần thì nhẹ nhàng chóng
vánh, nhưng xác thịt lại nặng nề yếu đuối.” Thánh Phaolô chia sẻ: “Ai
trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, ai trong anh em sa ngã mà
tôi không cảm thấy như thiêu như đốt” (2 Cr 11,29).
·
Đồng
hành tin cậy:
Người trợ giúp phải tỏ ra đáng tin cậy, niềm nở đón tiếp vô điều kiện và sẵn
sàng đồng hành với đương sự trong những chiến đấu của đương sự khiến đương sự
cảm thấy thoải mái và tin tưởng. Có thế mới giúp hội nhập tính dục và ơn gọi độc
thân.
(Slideshow Nở hoa cho cuộc đời)
BÀI
ĐỌC THÊM
THỦ DÂM TRẺ NÍT VÀ TUỔI DẬY THÌ
Hiện
tượng bé trai 3, 4 tuổi sờ mó cơ quan sinh dục không phải là biểu hiện phát dục
sớm. Sự trưởng thành tâm sinh lý của con người là một quá trình phát triển liên
tục, nên một số vùng hưng phấn trên thân thể (bộ phận sinh dục) bị đánh thức
trước tuổi dậy thì.
Trẻ
mới sinh khi bú mẹ giống như quá trình hưng phấn tính dục của người lớn. Trẻ 7-8
tháng mân mê bộ phận sinh dục, làm một số động tác kẹp đùi,… Trẻ trai 3, 4 tuổi
phát hiện cảm giác dễ chịu là lạ ở “chồi nụ” của mình qua một kinh nghiệm ngẫu
nhiên: lúc mắc tiểu, được cha mẹ kỳ cọ làm vệ sinh khi tắm rửa, cọ xát vào quần
khi đùa nghịch, đi lại,…hoặc cũng có thể do bệnh tật (phimosis - chít hẹp bao da
quy đầu gây viêm nhiễm ngứa ngáy phải gãi liên tục) từ đó chợt phát hiện và khơi
dậy tiềm năng hưng phấn tính dục, dẫn đến thích thú và đòi hỏi loại khoái cảm
này.
Xét
về bản chất, mục đích trò chơi tính dục của trẻ là phi tính dục, vui chơi và
giao hữu nhưng trong chiều sâu nội tâm không lý giải và ý thức được điều đó.
Đừng áp đặt “Tabu văn hoá” của mình lên trẻ, không la mắng trách phạt trẻ, mà
nên làm phong phú sinh hoạt của trẻ một cách đa dạng, thú vị:
-
hướng trẻ vào những trò chơi trí tuệ: vẽ, nặn, xếp giấy…
-
hạn chế không để trẻ bị kích thích trong môi trường dẫn đến
hoạt động tính dục (trèo cây, ôm gối, ngủ chung giường với cha mẹ, anh chị...).
-
hướng dẫn một số thường thức về tính dục bình thường, dạy
cách giữ vệ sinh, giúp trẻ hiểu về cơ quan sinh dục, cách tự bảo vệ mình tránh
khỏi bệnh tật, những thói quen xấu, tránh bị xâm hại tình dục.
Để
giải đáp mọi thắc mắc hóc búa của trẻ về tính dục:
-
Nên có thái độ tự nhiên ôn hoà, thẳng thắn, không nói dối,
không cần trả lời quá tỉ mỉ.
-
Giải thích ngắn gọn về cơ quan sinh dục, khuyên trẻ tự bảo
vệ mình như thế nào, không thể tự tiện đùa nghịch “cái ấy”.
-
Trả lời kiên quyết, rõ ràng, không nên dài dòng, liên
tưởng.
-
Nên nói nhẹ nhàng, không nên mắc cỡ hoặc gây cảm giác sợ
hãi hay thần bí.
Ai
cũng trải qua thời kỳ “khủng hoảng” của tuổi dậy thì, những thay đổi về tâm sinh
lý gây cho ta tinh thần bất an và khơi gợi trí tò mò về những điều không biết
trước được. So với thế hệ trước, lớp trẻ thời nay dậy thì sớm hơn, nghĩa là độ
chín về mặt sinh học giới tính đến sớm hơn. Nhưng có một điều là sự chín chắn về
mặt xã hội và tâm lý lại chậm hơn so với thế hệ trước. Tuổi trẻ hôm nay dường
như nông nổi hơn, tự do hơn trong việc quyết định cuộc sống của mình.
Những nét đặc trưng tâm lý của tuổi hoa niên thì bao đời nay vẫn thế: Một số bạn
gái xuất hiện kinh nguyệt từ 10-12 tuổi; một số bạn trai 12-14 tuổi đã có những
giọt tinh trùng đầu tiên trong những giấc mơ (mộng tinh) hoặc do thủ dâm. Tâm
trạng của người trong cuộc phụ thuộc vào hiểu biết của bản thân về hiện tượng
này, nếu được đọc sách hoặc được cha mẹ thầy cô và người đi trước chỉ dẫn thì sẽ
bớt lo âu, sợ hãi, chỉ còn lại sự hồi hộp.
Các
em gái lúc này vóc dáng đã mềm mại uyển chuyển hơn, làn da mịn màng hơn, đã quan
tâm đến bộ ngực của mình, e thẹn khi mặc thêm chiếc áo lá hoặc chiếc nịt ngực
bên trong lần áo ngoài, hơi chùng người xuống hoặc ôm cặp phía trước để che đi
phần nào độ lớn của chúng. Một số em khác lại ngượng ngùng, thậm chí cảm thấy
bất hạnh, khi đến tuổi này mà ngực vẫn phẳng lì “trước sau như một.” Cả hai
trường hợp đều bộc lộ sự thiếu tự tin.
Tình
cảm lứa tuổi này rất dễ biến đổi, dễ xúc động và biểu hiện tính hai cực rõ rệt:
các em thường tự khép kín thế giới nội tâm của mình đồng thời lại có cảm giác
mình cô độc. Nếu không được giải toả tâm lý dễ dẫn đến trầm cảm. Ngoài ra xuất
hiện những đặc điểm này: Tính đối kháng và tính phục tùng, tính độc lập và tính
ỷ lại, tâm lý bất an, thích kết bạn, lòng tự trọng cao… Nhiều cô còn hay ghen tị
với người khác hoặc mặc cảm tự ti về bản thân một cách thái quá...
Con
trai khi bước vào tuổi dậy thì cũng có một số biến đổi về cơ thể và tâm lý để
dần trở nên người đàn ông trưởng thành: lông tóc mọc rậm và mau dài hơn, mọc ria
mép và râu (“nam tu nữ nhũ”), cục yết hầu nổi lên ở cổ, “vỡ giọng”, mọc mụn
trứng cá ở trên mặt..., tăng chiều cao và bắp thịt tạo nên dáng vẻ riêng của
phái mạnh. Các cậu bắt đầu quan tâm đến nửa kia của mình và luôn sẵn sàng ra tay
giúp đỡ người khác, thể hiện chí khí nam nhi của mình. Tâm tính thay đổi thất
thường: hay nổi nóng, lòng tự ái cao, hay chống đôi người cùng phái (cha, anh,
thầy giáo...); có bạn hay chải chuốt, ăn diện gây sự chú ý cho mọi người, có bạn
lại ăn mặc xuề xoà – “bụi bụi” đến mức... phủi ra bụi - vì cho rằng chỉ có phe
tóc dài mới hay đi shopping và quan tâm đến vẻ bề ngoài. Vì tâm lý bốc đồng hay
nổi máu anh hùng nên các cậu dễ bị sa đà hoặc bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng. Cũng
có những bạn gặp “trục trặc” trong tiến trình phát triển giới tính mà chúng ta
quen gọi là những người thuộc “giới tính thứ ba” (á nam á nữ).
E.IV. VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
(Slideshow Dẫu con là ai)
Nằm vắt tay lên trán ta nghĩ đến chuyện cuộc đời, ngồi bấm đốt ngón tay ta nghĩ
đến chuyện ngày qua. Nằm vắt tay lên trán ta nghĩ đến chuyện bây giờ, ngồi bấm
đốt ngón tay ta nghĩ đến chuyện ngày mai.
E.IV.1
NhẬn ĐỊnh
Đồng
tính luyến ái là một vấn đề ngày nay rất nhạy cảm và rất có nguy cơ xảy ra. Và
do đó cũng rất có nguy cơ hiểu lầm và bị gán lầm “nhãn hiệu đồng tính luyến ái”
cho những tình bạn và đôi bạn thân thiết tốt lành. Sự ngộ nhân này sẽ làm tổn
hại bầu khí thanh bình, tin tưởng và an toàn của cộng đoàn giáo dục, và có thể
đưa tới những hậu quả tiêu cực đáng ra không nên có. Vì thế, cả các nhà đào tạo
lẫn các ứng sinh, cũng như các thành phần khác trong cộng đoàn, cần trực diện
với nó và cẩn trọng xem xét thấu đáo mọi khía cạnh liên quan, ngõ hầu xây dựng
và sống tốt mọi mối tương quan lành mạnh, trong bầu khí tin tưởng, an vui và
hạnh phúc của các con cái Chúa.
Theo
trình thuật sáng tạo loài người trong sách Sáng Thế (St 2,18-24) và theo quan
niệm Âm-Dương Á đông, người nam và người nữ hấp dẫn nhau, cần nhau, gắn bó nhau
và bổ túc cho nhau, tạo một thế quân bình tự nhiên, được biểu lộ đặc biệt trong
đời sống hôn nhân.
Cuộc
sống tu trì thiếu mất sự quân bình tự nhiên đó. Nếu không thiết lập được và sống
trong một thế quân bình siêu nhiên trong các môi trường đồng giới nam và đồng
giới nữ (bằng đời sống cầu nguyện, đời sống huynh đệ cộng đoàn, tận tụy với sứ
vụ), thì sự cuốn hút đó có thể được bù trừ bởi một sự chuyển hóa tâm lý, vì
trong mỗi con người đều có cả hai yếu tố nam và nữ; yếu tố này có thể trội hơn
yếu tố kia tùy người. Sự chuyển hóa tâm lý này có thể đưa tới một mối tương quan
thiếu quân bình hay lệch lạc trong ứng xử tình cảm và giới tính ở một số đôi bạn
đồng giới, nhưng không hẳn đã là đồng tính luyến ái thực thụ, dù có thể đưa tới
đồng tính luyến ái.
Ngày
nay, nền văn minh tục hóa lấy cái tôi làm trọng tâm, tôn thờ vật chất, hưởng thụ
khoái lạc nhục dục, suy thoái đạo đức làm nảy sinh và gia tăng tình trạng đồng
tính luyến ái. Trong bối cảnh ấy, người ta nghi ngại và lo sợ đến đỗi nhầm lẫn
với cả những tình bạn thân thiết tốt lành, vốn mang lại nhiều lợi ích lớn lao
trong mọi lãnh vực cuộc sống, nhất là khi có được người bạn tri âm tri kỷ, có
thể nói được với nhau bất cứ điều gì hầu giúp nhau sửa chữa nên tốt.
Tuy
nhiên cũng có những tình bạn làm tha hóa cuộc đời con người. Vì thế mà có sự lo
lắng trước những biểu hiện tình bạn thân thiết trong các môi trường đồng giới
nam hay đồng giới nữ, khiến những người có trách nhiệm đào tạo, đánh giá và cất
nhắc các ứng sinh thường lo lắng và đề phòng trước những biểu hiện tình cảm giới
tính không phù hợp với đời sống linh mục và tu sĩ, đặc biệt vấn đề đồng tính
luyến ái.
Nỗi
lo của các ngài là chính đáng. Chúng ta kính trọng, cảm thông chia sẻ trách
nhiệm của các ngài và nhận ra động lực yêu thương của các ngài. Nhưng cách hiểu
và đánh giá chính xác bản chất đồng tính luyến ái là gì? thế nào? cũng như cách
thức và mức độ của các biện pháp phòng ngừa và giải quyết thì cần được quan tâm
làm sáng tỏ, đưa tới hiệu quả tích cực, trong đào tạo cũng như trong cuộc sống
sứ vụ ra sao?
E.IV.2 ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI LÀ GÌ?
E.IV.2a. Hiện tượng đồng tính luyến ái trong Kinh Thánh
1) Kinh Thánh Cựu Ước.
Tính
dục đồng giới hay đồng tính luyến ái không phải là điều mới lạ, nhưng đã có từ
xưa vì bản tính tội lỗi của con người. Trong tiếng Anh có danh từ sodomy mô tả
những hành động kết hợp tội lỗi giữa những người nam với nhau. Trong Kinh Thánh
Cựu Ước, thuật ngữ này phát xuất từ tên thành phố Sôđôma là thành phố tội lỗi đã
bị Chúa hủy diệt bằng lửa. Khi Chúa sai hai thiên thần đến giải cứu gia đình ông
Lót, cháu ông Ábraham, cư ngụ tại Sôđôma thì dân thành Sôđôma đã đòi có những
hành động tội lỗi với hai thiên sứ mà họ nghĩ là hai người đàn ông:
“Hai sứ
thần đến thành Xơ-đôm vào buổi chiều; ông Lót lúc ấy đang ngồi ở cửa thành. Vừa
thấy các ngài, ông Lót đứng lên ra đón các ngài và cúi sấp mặt xuống đất. Ông
nói: Thưa các ngài, kính xin các ngài ghé lại nhà tôi tớ các ngài đây để nghỉ
đêm và rửa chân, rồi sớm mai các ngài tiếp tục đi đường. Họ đáp: Không! Chúng
tôi sẽ nghỉ đêm ngoài đường phố. Nhưng ông nài nỉ các ngài mãi nên các ngài ghé
lại và vào nhà ông. Ông làm tiệc đãi các ngài, nướng bánh không men, và các ngài
đã dùng bữa. Các ngài chưa đi nằm thì dân trong thành, tức là người Xơ-đôm, bao
vây nhà, từ trẻ đến già, toàn dân không trừ ai. Chúng gọi ông Lót và bảo: Những
người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi.
Ông Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng, rồi nói: Thưa anh em, tôi
van anh em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi
sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai
người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi. Chúng
đáp: Xê ra! Tên này là một ngoại kiều đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng
tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những tên kia! Họ xô mạnh ông Lót và xông vào
để phá cửa. Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng
cửa lại. Còn những người đứng ngoài cửa, thì các ngài làm cho chúng ra mù, từ
người nhỏ nhất đến người lớn nhất, khiến chúng không sao tìm ra cửa. Hai người
khách nói với ông Lót: Ông còn ai ở đây nữa không? Con rể, con trai, con gái, và
tất cả những gì ông có trong thành, hãy đưa ra khỏi nơi này. Chúng tôi sắp phá
huỷ nơi này, vì tiếng kêu trách dân thành quá lớn trước nhan Đức Chúa, và Đức
Chúa đã sai chúng tôi đến huỷ diệt chúng” (St 19,1-13).
Khi con dân Chúa đi qua sa mạc vào Đất Hứa, Chúa
đã ban luật lệ cho họ và một trong những điều luật đó là: Chớ ăn nằm với người
nam như người ta ăn nằm với người nữ; đó là một điều quái gở. Nếu một người nam
ăn nằm với một người nam khác, hay một người nữ ăn nằm với một người nữ khác,
thì hai người đó hẳn phải bị xử tử, vì họ đã làm một điều gớm ghiếc; máu họ sẽ
đổ lại trên mình họ: “Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó
là điều ghê tởm” (Lv 18,22); “Khi
người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã
làm điều ghê tởm; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng”
(Lv 20,13).
2) Thánh Kinh Tân Ước,
Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi các tín hữu tại Rôma, thủ đô đế quốc Lamã lúc
bấy giờ, mô tả về tình trạng tội lỗi của con người: “Họ buông theo dục tình
đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều trái tự nhiên.
Đàn ông cũng vậy, không quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà lại đem lòng
thèm muốn lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân hình
phạt xứng với sự lầm lạc của mình” (Rm 1, 26-27). Và Ngài cũng viết trong
thư gởi cho tín hữu tại Corinthô: “Những kẻ tà dâm, thờ thần tượng, ngoại
tình, đồng tính luyến ái, trộm cắp, tham lam, say sưa, chưởi rủa, cướp giật sẽ
không được thừa hưởng nước Chúa” (1 Cor 6,10).
E.IV.2b Nói rõ hơn về đồng tính luyến ái
Không nên vội vàng kết luận một người là đồng tính luyến ái, dù thấy có sự thúc
đẩy và vài ứng xử có liên quan. Đồng tính luyến ái đích thực là khi hai người
cùng phái có sự thu hút dai dẳng, có đáp ứng xúc cảm và ứng xử tính dục với
nhau, nghĩa là người ước muốn nhục dục tìm cách thực hiện ước muốn đó bằng những
hành động nhục dục với một người cùng phái.
Nguồn gốc đồng tính luyến ái là do di truyền hay do lượng hooc-môn dị thường.
Phân tâm học cho là do những xáo trộn sâu xa trong tương quan cha-mẹ-con-cái,
nhất là khi một người quá ràng buộc thân thiết có sức hấp dẫn cám dỗ. Những yếu
tố hoàn cảnh, tâm lý, văn hóa, xã hội, sinh học làm hiện tượng đồng tính luyến
ái trở nên phức tạp.
Người đồng tính luyến ái có sự khiêu dâm trổi vượt đối với người đồng phái khác.
Nhưng người đó cũng phải đau khổ chịu đựng sự thiếu hụt trong nam tính hay nữ
tính của mình. Nhưng thật đáng tiếc là đồng tính luyến ái được xã hội ngày nay
chấp nhận nhiều hơn, thậm chí có một ít nước cho những đôi đồng tính luyến ái
qui chế hôn nhân nữa! Dù vậy, đó vẫn là nguồn lo âu đối với nhiều người. Giáo
Hội và những người có lương tri kịch liệt phản đối.
Một
người khác tính luyến ái sẽ phải đau khổ khi có thể chạm trán với người đồng
tính luyến ái, nghĩa là bị cưỡng bức, lạm dụng vì những lý do thực tiễn nào đó,
dù không thường xuyên.
E.IV.2c. Thái độ đối xử tích cực
Người trợ giúp phải cẩn thận lắng nghe không kết án và đón nhận vô điều kiện,
đồng thời giúp đương sự phân biệt có phải là đồng tính luyến ái đích thực hay
ứng xử ấy chỉ do hoàn cảnh ép buộc hay một yếu kém đạo đức. Phải nhân ái với họ,
vì họ là nạn nhân của chính hướng chiều yếu đuối của họ: “Có ai trong anh em yếu
đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm
thấy như thiêu như đốt” (Thánh Phaolô)
E.IV.3. LẬP TRƯỜNG CỦA GIÁO HỘI
Huấn
Thị của Bộ Giáo Dục Công Giáo về những tiêu chuẩn để biện phân ơn gọi đối với
những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái và việc chấp nhận họ vào Chủng
Viện và lên Chức Thánh. Huấn thị này do Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI phê chuẩn
ngày 31-08-2005 và ra lệnh phát hành tại Roma ngày 04-11-2005, lễ kính nhớ thánh
Charles Bôrrômêô, Bổn Mạng các Chủng Viện, được ấn ký do
Đức
Hồng Y ZENON GROCHOLEWSKI, Bộ Trưởng
Đức
Cha J. MICHAEL MILLER, C.S.B., Thư Ký
Cần
phải có một sự biện phân kỹ càng những vấn đề liên quan đến lãnh vực tình cảm và
giới tính, trong suốt thời gian đào tạo, và cả về sau nữa. Huấn thị đưa ra những
quy tắc liên quan đến một vấn đề đặc biệt càng lúc càng cấp bách do tình huống
hiện tại gây ra, đó là: Có được chấp nhận vào Chủng Viện và lên Chức Thánh những
ứng sinh có khuynh hướng sâu nặng và ứng xử đồng tính luyến ái không?
Ứng
sinh phải luôn ý thức rằng toàn bộ đời sống phải được điều khiển bởi việc hiến
dâng toàn thân, và phải đạt tới một sự trưởng thành tình cảm và tính dục. Sự
trưởng thành này cho phép đương sự có được những tương quan thích đáng với cả
người nam và người nữ.
Giáo
lý Công giáo phân biệt những hành động đồng tính luyến ái và những khuynh hướng
đồng tính luyến ái. Và trong xu hướng đồng tính luyến ái thì cũng cần phân biệt
xu hướng chớm nở có thể chữa trị được hay xu hướng đã ăn rễ sâu không thể nào
gột tẩy. Truyền Thống Giáo Hội vẫn luôn xem những hành động đồng tính luyến ái
là những hành động vô luân tự bản chất và ngược lại với luật tự nhiên. Vì thế,
không có trường hợp nào trong những hành động này được chấp thuận.
Những khuynh hướng đồng tính luyến ái đã bám rễ sâu mà người ta thấy nơi một số
người nam cũng như nữ được xem là vô trật tự và thường là một thử thách khó vượt
qua đối với những người này. Tuy nhiên, những người này phải được tiếp đón cách
kính trọng và tế nhị, tránh mọi phân biệt đối xử bất công: “Trái lại, phải
đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên
Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Eph 4,32).
Giáo
hội, dù vẫn kính trọng sâu xa những người này, không thể chấp nhận vào chủng
viện và vào các chức thánh những người thực hành đồng tính luyến ái, hoặc có
những khuynh hướng đồng tính luyến ái đã bám rễ sâu và ủng hộ cái được gọi là
văn hóa đồng tính nam, vì thiếu những tương quan chính đáng với những người nam
và người nữ khác. Trái lại, những khuynh hướng đồng tính luyến ái dù chỉ là biểu
hiện của một vấn đề tạm thời, chẳng hạn như vấn đề của tuổi thanh niên chưa được
hoàn tất, cũng phải được vượt qua ít là ba năm trước lúc truyền chức phó tế.
Như
thế, nếu mới chỉ là khuynh hướng đồng tính luyến ái và có thể chữa trị với thời
gian thì không bị ngăn trở. Phải phân biệt hiện tượng và bản chất: Hiện tượng sẽ
qua đi, bản chất mới khó thay đổi. Nếu một ứng sinh thực hành đồng tính luyến ái
hoặc có những biểu hiện của khuynh hướng đồng tính luyến ái đã ăn rễ sâu xa, thì
vị linh hướng cũng như cha giải tội của ứng sinh, có bổn phận lương tâm ngăn cản
anh không tiến tới việc chịu chức. Thật là không ngay thẳng trầm trọng khi một
ứng sinh nào che giấu việc đồng tính luyến ái của mình để đạt tới các chức thánh
cho bằng được. Một thái độ không trung thực như thế là không phù hợp với tinh
thần chân lý, tinh thần ngay thẳng và sẵn sàng phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội.
Vì
tính chất nghiêm trọng của nó, ĐTC Biển Đức XVI dạy áp dụng rộng rãi Huấn thị
này: Báo L'Osservatore Romano ngày 22/5/2008 có đăng lời giải thích ngắn gọn của
Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, và nói rằng Đức Giáo Hoàng đã chấp thuận cho công
bố tin này ngày 8 tháng 4 năm 2008. Lời giải thích của Đức Hồng Y cho hay các
hướng dẫn được trình bầy trong lá thư năm 2005 của Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo
áp dụng cho “tất cả mọi trường đào tạo linh mục, kể cả các trường đặt dưới quyền
điều khiển của các Giáo Hội Đông Phương, cho việc Phúc Âm hoá các Dân Tộc, và
cho các Học Viện Đời Sống Tận Hiến và các Hội Dòng Đời Sống Tông Đồ.”
E.IV.4. THÁI ĐỘ PHẢI CÓ
Căn
cứ vào những khảo sát khoa học và lập trường của Giáo Hội, chúng ta phải có cái
nhìn thấu cảm và thái độ tôn trọng, tin tưởng đối với nhau, không phán đoán
thiếu cơ sở và vội vàng kết luận những ai đó là đồng tính luyến ái. Dù có nghi
ngờ những ai đó có biểu hiện đồng tính luyến ái cũng không được phân biệt đối
xử, cô lập hay tẩy chay, không những lỗi bác ái mà lỗi cả đức công bằng. Nhất là
khi điều nghi ngờ thực tế không có thì ai sẽ đền bù sự oan uổng bất công đó?!
Phải
lấy tinh thần bác ái huynh đệ mà trực tiếp trao đổi chỉ bảo (như Chúa Giêsu đã
dạy), lấy tinh thần siêu nhiên mà cầu nguyện và phó thác cho Chúa định liệu,
nhẫn nại chờ đợi vì cuộc sống thực mỗi ngày sẽ mạc khải đúng chân tướng con
người: “Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che
giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng” (Lc 8,17).
Không tìm cách xen vào cuộc đời người khác: “Tôi nghe nói trong anh em có một
số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào” (2 Tx
3, 11).
Không ác ý theo dõi, rình mò dò xét để báo cáo bằng thư nặc danh; cũng không
nhận làm ăng-ten tố cáo nhau, vì như thế sẽ tạo nên nghi ngờ thù oán nhau, làm
mất bầu khí bình an, tin tưởng và thương yêu, là cái cần thiết để xây dựng cộng
đoàn giáo dục: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần,
hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Eph
4,29). Phải nhớ lời Chúa Giêsu bảo Phêrô: “Nếu Thầy muốn nó ở lại cho đến khi
Thầy đến, việc gì đến con, con hãy cứ theo Thầy”- “Các con đừng xét đoán để khỏi
bị xét đoán; các con đong bằng đấu nào thì sẽ đong trả lại bằng đấu ấy cho các
con.” Hãy cho người biết lỗi, cho họ cơ hội sửa lỗi, và cho họ thời gian nữa, vì
không ai một sớm một chiều mà sửa ngay được. Tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp
trong tương lai (“nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cải, thị vị vô quá”).
Trái
lại, người có trách nhiệm sẽ đích thân kiểm soát bằng sự phục vụ đầy chăm sóc và
gần gũi yêu thương, vì cuộc sống mỗi ngày sẽ mạc khải đúng con người thật: “Đi
lâu mới biết đường dài, ở lâu mới biết con ngài phải chăng.” Nhờ đó sẽ phát hiện
kịp thời và có cách thích hợp nhất để uốn nắn, đào tạo với lòng cảm thông. Thựo
tế trong Hội Thánh cho thấy “mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân hẳn
còn có một tương lai.”
Trong trường hợp biết rõ ai đó có đồng tính luyến ái thật và để tránh thiệt hại
lớn cho cộng đoàn lẫn đương sự, sau khi đã trực tiếp làm mọi cách có thể, và
nhất là cầu nguyện, hãy theo lương tâm, can đảm đích thân kín đáo trình bày với
Bề trên và sẵn sàng chịu trách nhiệm kiểm chứng về điều mình nói. Người có thẩm
quyền cũng nên kín đáo làm việc với các đương sự, không nên đưa ra công khai,
sinh ra mặc cảm càng khó và tổn thương tới thanh danh của các đương sự cũng như
Chủng viện. Hơn nữa cũng phải chắt lọc điều mình nghe và các hậu ý của người đến
nói.
Các
đôi bạn thân thiết cũng hãy dè dặt, khôn ngoan và bác ái tránh gây cớ hiểu lầm
cho người khác: không thường xuyên chỉ đi lại vui chơi tâm sự với nhau, song mở
ra với mọi người; nhất là tránh những biểu lộ tình cảm quá thân mật về mặt thể
lý… Nhưng cũng đừng vì sợ con mắt nhòm ngó, tỵ nạnh mà xa tránh nhau làm tổn
thương tình bạn cao đẹp đã có. Mười hai tông đồ, mà Chúa Giêsu vẫn thân tín hơn
với Phêrô, Giacôbê và Gioan, nhất là Gioan đó thôi, dù vẫn có vài hiểu lầm và
bất bình!
Tay Tạo Hoá đặt bầu lửa đỏ,
Giữa thinh không soi tỏ gian trần,
Con người hối hận thở than,
Dám đâu tiếp tục những lầm lỗi xưa.
Vừa lạc nẻo lại vừa mù quáng,
Chẳng biết đường biết hướng về đâu,
Chúa ôi chính lộ dẫn vào,
Kẻo con sa xuống vực sâu có ngày!
Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Năm Tuần I
“Chúc
tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu
lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng
đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên
Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó”
(2 Cor 1, 3-4).
E.V. ÁP DỤNG TÂM LÝ HỌC VÀO PHÂN ĐỊNH VÀ ĐÀO TẠO ƠN GỌI
Ngày
30/10/2008, Bộ Giáo Dục Công Giáo công bố “Hướng dẫn sử dụng Tâm lý học
trong Tuyển chọn và Đào tạo ứng sinh Linh mục.” Văn kiện được ĐTC Biển
Đức 16 chuẩn y. Những tư tưởng chính của văn kiện là vai trò của các nhà tâm lý
trong việc giúp nhận định ơn gọi; trách nhiệm của Giáo Hội khi nhận định, đánh
giá xem các ứng sinh có phù hợp cho sứ vụ linh mục hay không; Đức Giám mục là
người đại diện đầu tiên của Chúa Kitô trong việc đào tạo các linh mục; vai trò
của người đào tạo là nhằm chuẩn bị cách tương xứng cho chức linh mục.
Phải
nhắc đến bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý các ứng sinh,
có những tổn thương không thể chữa lành hoặc những khó khăn tác động đến khả
năng tiến bước trên con đường huấn luyện hướng đến chức linh mục của họ, không
chỉ tại thời điểm gia nhập, mà cả thời điểm trước khi thụ phong nữa; nhưng nếu
phát hiện kịp thời sẽ tránh được nhiều oái ăm.
Vì những ảnh hưởng đó và nhu cầu đào luyện con
người của các ứng sinh, vấn đề sử dụng khoa học tâm lý trong chủng viện được đặt
ra, với hy vọng những đóng góp của khoa tâm lý học góp phần đào tạo tâm lý cho
các ứng sinh và chuẩn bị họ có một sự cân bằng nhân cách. Các trắc nghiệm tâm lý
cho biết các chi tiết đáng lưu ý trong việc tuyển chọn và đào tạo ứng sinh,
chúng cũng cho các ứng sinh hiểu rõ bản thân hơn,
nhưng không nên chỉ dựa vào các trắc nghiệm tâm lý
mà thôi.
Do
hoàn cảnh đặc biệt, các chủng viện Bắc Mỹ sử dụng các trắc nghiệm tâm lý để đánh
giá xem các ứng sinh có vấn đề gì không. Các vấn đề thường được quan tâm chú ý
là xem các ứng sinh có vâng lời đủ hay không, có khả năng theo đuổi ơn gọi đến
cùng hay không, có cởi mở, thân thiện, và có đáng tin cậy hay không, hoặc có các
khuynh hướng lệnh lạc về giới tính hay không, để giám định sự trưởng thành và
khả năng sống đời khiết tịnh. Nếu phát hiện ứng sinh có vấn đề và không thể
thay đổi được thì không để ứng sinh ấy trong chủng viện nữa. Vì muốn làm tất
cả những gì có thể làm để tránh các vấn nạn có thể có, họ không thể bỏ qua các
trắc nghiệm tâm lý này.
Việc đào tạo nhân bản không thể tách rời với việc
đào tạo thiêng liêng nên người hướng dẫn thiêng liêng có một vai trò đặc biệt.
Những hình thức phân tích và hỗ trợ tâm lý không thể thay thế việc hướng dẫn
thiêng liêng, vì chính đời sống thiêng liêng tạo đà tăng trưởng các đức tính của
con người mà không bị sự tồn tại của tâm lý tự nhiên cản trở.
Do đó phải chú trọng đến tầm quan trọng của ơn
Chúa trong việc đào tạo ứng sinh. Ơn gọi linh mục là hồng ân và là mầu nhiệm vốn
không thể đem so sánh với các phương pháp tâm lý.
Việc
nhờ đến chuyên gia tâm lý chỉ được sử dụng trong một số trường hợp khó khăn đặc
biệt. Do đó, nhà tâm lý học không thể là một phần của đội ngũ đào tạo. Sự trợ
giúp tâm lý nên được hội nhập vào việc đào tạo toàn diện của ứng sinh, và không
được gây trở ngại cho các giá trị thiêng liêng không thể thay thế. Các nhà tâm
lý không được tiết lộ các khía cạnh đời sống riêng tư của khách hàng với đệ tam
nhân, dù là thẩm quyền tôn giáo hay chính trị của họ, mà không có sự đồng thuận
hoàn toàn của họ. Cũng thế, không ai, dù là Bề trên, có thể đi vào các chi tiết
tiểu sử tâm lý của ứng sinh mà không có sự đồng thuận rõ ràng của họ.
Nhưng có hai thái cực sai lầm khi xem xét sự hỗ trợ về tâm lý đối với các ứng
sinh linh mục: một là việc nhà tâm lý đóng vai trò vị linh hướng; hai là việc
người đào tạo nghĩ rằng sự hỗ trợ từ các nhà tâm lý là không cần thiết đối với
sự trưởng thành ơn gọi nơi những người khát khao chức linh mục. “Đối với nhà tâm
lý nhắm mắt làm ngơ trước điều siêu việt, chối bỏ tầm quan trọng của đức khiết
tịnh hoặc quay lưng lại đối với một số giá trị nào đó vốn thích hợp với Hội
Thánh, thì rõ ràng họ chẳng thể có chỗ đứng trong việc giúp trưởng thành ơn gọi
cho người hiến dâng đời mình cho sứ vụ. Nhà tâm lý nên có sự am hiểu lý thuyết
và có cách tiếp cận nhằm đem chiều kích siêu việt của người ứng sinh hòa với
lòng nhiệt thành và phẩm chất của họ, để tất cả những điều ấy đơm bông kết trái
nơi người ứng sinh.” Giáo Hội đánh giá cao các phương pháp tâm lý và muốn chúng
được sử dụng theo cách chúng có thể mang lại lợi ích.
Hướng sử dụng tâm lý học
trong việc tiếp nhận và đào luyện ứng sinh Linh mục:
Vì sự trưởng thành đầy đủ của các linh mục ngày mai
Vaticano - Thứ Năm 30 Tháng 10 năm 2008
do Bộ Giáo Dục Công Giáo trình bày
HY. Zenon Grocholewski, Tổng trưởng
TGM. Jean-Louis Brugùes, Thư ký
I.
Hội Thánh và việc phân định ơn gọi
(1)
Mọi ơn gọi đều là ân huệ đến từ Thiên Chúa, được ban ở trong HT và qua HT. HT có
nhiệm vụ phân định ơn gọi và tính thích hợp của ứng sinh, vừa bảo đảm thiện ích
của HT vừa bảo đảm được thiện ích của ứng sinh trong tổng thể, mà cuối cùng bởi
việc Giám mục nhìn nhận đó là ơn gọi đích thực của CTT. Mọi ơn gọi được định
hình để phụng sự TC và xây dựng HT hầu tăng trưởng Nước TC ở giữa trần gian. Nhà
đào tạo phải thực hiện hài hòa hai thiện ích này để chúng hội tụ và hỗ tương
năng động với nhau để phụng sự TC và phục vụ con người (x. PDV số 66-67).
(2)
Tác vụ đồng hình đồng dạng với CK của linh mục đòi hỏi những năng lực và nhân
đức đối thần (tin, cậy, mến) cũng như luân lý (can đảm, khôn ngoan,
công bằng và tiết độ), được nâng đỡ bởi sự quân bình nhân bản và tâm lý,
tình cảm hầu có thể dâng hiến bản thân trong tự do của nếp sống độc thân, tương
quan với mọi người (x. PDV 43-44; GL 1029; 1041,1).
Trong tổng thể bốn chiều kích đào tạo linh mục của PDV, nếu chiều kích thiêng
liêng là yếu tố quan trọng nhất, thì chiều kích nhân bản là nền tảng của việc
đào luyện toàn diện (x. PDV 45c), khiến nhân cách linh mục trở thành nhịp cầu
đưa người ta lại với CK, Đấng cứu độ (x. PDV 43). Các khả năng và phẩm chất nổi
bật:
·
Cảm
thức tích cực và ổn định về nam tính của mình trong tương quan trưởng thành với
người khác;
·
Cảm
thức vững chắc tính thuộc về trong hiệp thông với linh mục đoàn và cộng tác
trách nhiệm với Giám mục;
·
Sự
tự do phấn khởi và nhất quán trong họat động hằng ngày;
·
Can
đảm lấy quyết định và trung thành với quyết định ấy;
·
Hiểu
biết những năng lực và giới hạn của mình để hội nhập chúng thành một nhãn quan
tích cực về bản thân, với khả năng sửa chữa bản thân;
·
Biết
thưởng thức vẻ đẹp và nghệ thuật nhìn nhận chân lý;
·
Tôn
trọng, tín nhiệm và đón nhận người khác;
·
Khả
năng hội nhập phái tính của mình và sống bậc độc thân.
(x.
OT 11; PO 3; Ratio 51; PDV 17; Sacerdotalis Coelibatus 63-64)
Những phẩm chất đó đạt được nhờ sự tương hợp của ứng sinh với hoạt động của ơn
thánh nơi mình và nhờ một tiến trình đào luyện tiệm tiến, lâu dài, sinh động và
cá vị hóa mà Giáo Hội cung cấp cho.
II.
Chuẩn bị các nhà đào tạo
(3)
Phải chuẩn bị thích đáng các nhà đào tạo để họ:
·
hiểu
rõ con người, các nhịp độ tăng trưởng, các tiềm năng và sự yếu đuối của ứng
sinh, cũng như cách ứng sinh sống mối tương quan với Chúa;
·
thực
hiện việc phân định ơn gọi theo giáo huấn của Hội Thánh hầu an tâm quyết định
thâu nhận hay thải hồi, cũng như đồng hành giúp ứng sinh thủ đắc các đức tính
đối thần và luân lý trong sự nhất quán và tự do nội tâm dâng mình trọn vẹn phục
vụ Hội Thánh.
(4)
Có không ít những sai lầm trong việc biện phân ơn gọi khiến có những thiếu năng
lực tâm lý, mang tính bệnh lý tỏ hiện ra sau khi chịu chức linh mục. Vì thế, nhà
đào tạo cần được chuẩn bị chuyên môn về tâm lý, hiểu sâu về con người và những
đòi hỏi của việc đào tạo, để:
·
nhạy
cảm với kỹ năng tâm lý để nhận ra những động lực thực của ứng sinh,
·
phân
định được những cản trở, cân nhắc chính xác và khôn ngoan chuyện đời của ứng
sinh,
·
lượng định về con người ứng sinh trong toàn thể và trong sự tăng trưởng tiệm
tiến với những điểm mạnh và những điểm yếu của ứng sinh, cũng như việc ứng sinh
ý thức về vấn đề của mình và khả năng ứng sinh kiểm soát cách có trách nhiệm và
tự do hành xử của mình.
III.
Đóng góp của khoa tâm lý trong phân định và đào tạo
(5)
Quà tặng ơn gọi của Chúa vượt quá thẩm quyền phân định của khoa tâm lý. Nhưng
khoa tâm lý hữu ích để lượng định tình trạng tâm lý, khả năng tăng triển nhân
bản của ứng sinh; đồng thời giúp nhà đào tạo nhận ra các triệu chứng, hành trình
chữa trị, nâng đỡ sự phát triển các phẩm chất và các mối tương quan để ứng sinh
đáp trả ơn gọi tốt hơn.
Việc
đào tạo phải lưu ý sự mất quân bình trong con người do đối kháng giữa lý tưởng
dâng hiến và đời sống thực tiễn của ứng sinh, cũng như những khó khăn trong việc
tăng triển tiệm tiến các đức tính nhân bản và các tương quan bị cản trở bởi
những vết thương cá biệt trong quá khứ chưa được giải quyết. Sự trợ giúp của vị
linh hướng và cha giải tội có thể giúp khắc phục với ơn Chúa.
Ngày
nay, tâm thức của nhiều ứng sinh mới gia nhập bị ghi dấu bởi chủ nghĩa tiêu thụ,
sự bất ổn trong các tương quan, chủ thuyết tương đối về luân lý, nhãn quan sai
lầm về phái tính, thiếu chọn lựa và phủ định có hệ thống các giá trị… Những vết
thương chưa được chữa lành gây nên những rối loạn trong chính mình mà ứng sinh
không nhận ra lại gán cho những nguyên nhân bên ngòai, cản trở khả năng tiến bộ
trong tiến trình đào tạo.
Trong một số trường hợp cá biệt, chuyên gia tâm lý có thể giúp ứng sinh vượt qua
những vết thương ấy, nhờ phỏng vấn và trắc nghiệm [dĩ nhiên ứng sinh phải hiểu,
tự do và đồng ý rõ rang trước] để nội tâm hóa lối sống của Chúa Giêsu ngày một
vững vàng và sâu xa hơn. Nhà đào tạo tránh sử dụng kỹ thuật chuyên tâm lý và tâm
lý bệnh học trên ứng sinh.
(6)
Ban đào tạo chọn lựa các chuyên gia tâm lý, ngòai chuyên môn nghề nghiệp, phải
có một nền nhân học kitô giáo về ngôi vị nhân linh, phái tính, ơn gọi độc thân
linh mục, để can thiệp của họ không gây rối loạn hay đối kháng, nhưng hội nhập
với việc đào tạo luân lý và thiêng liêng, với mầu nhiệm con người trong tương
quan cá nhân với Chúa, đúng với quan điểm của Hội Thánh.
Hỗ
trợ tâm lý phải hội nhập vào khung cảnh đào tạo toàn diện của ứng sinh, không
cản trở việc đồng hành thiêng liêng luôn hướng ứng sinh về chân lý tác vụ thánh.
Bầu khí đức tin, cầu nguyện, suy niệm, học hỏi thần học và đời sống cộng đoàn sẽ
giúp ứng sinh hiểu biết ý nghĩa của việc sử dụng tâm lý vào hành trình ơn gọi
của mình.
(7)
Việc sử dụng chuyên viên tâm lý phải theo Rationes Institutiois Sacerdotalis
lien hệ trong sự trung thành và nhất quán với Hướng dẫn này.
a.
Sự phân định khởi đầu
(8)
Ngay từ đầu, nhà đào tạo phải biết chính xác nhân cách, khuynh hướng, khả năng
và tiềm năng của ứng sinh; lượng định bản chất và mức độ các vết thương, nếu có.
Đừng quên hai khuynh hướng trái ngược của ứng sinh:
·
giảm
nhẹ/phủ nhận những yếu đuối riêng của mình, không nói lên những khó khăn nặng nề
vì sợ không được hiểu và không được chấp nhận, vun đắp kỳ vọng ít có thực về
tương lai của mình.
·
thổi
phồng những khó khăn, coi như ngăn trở không thể vượt qua cho hành trình ơn gọi:
sự lệ thuộc tình cảm quá độ, gây hấn quá mức, thiếu khả năng trung thành với
nhiệm vụ đảm nhận, không thiết lập được tương quan thanh thản, cởi mở, tín nhiệm
và cộng tác huynh đệ với quyền bính, phái tính rối loạn và chưa định hình…
Nếu
nghi ngờ có bệnh lý rối loạn tâm lý thì phải chữa trị trước khi nhận vào tu.
Chuyên gia tâm lý cũng giúp nhà đào tạo vạch ra hành trình đào tạo thích hợp với
nhu cầu cá nhân của ứng sinh. Việc định lượng khả năng sống đặc ân độc thân
không chỉ lưu ý tới việc kiêng cữ hoạt động của cơ năng sinh sản, mà còn phải
xét đến định hướng phái tính: Đức Khiết tịnh vì Nước Trời còn là cái gì hơn là
không có những liên hệ tính dục.
b.
Sự phân định kế tiếp
(9)
Trong giai đoạn đào tạo, chuyên gia tâm lý cũng có thể giúp ứng sinh có được tốt
hơn những đức tính nhân bản và luân lý, sự hiểu biết sâu xa hơn về nhân cách của
chính mình, khắc phục những khủng hoảng có thể xảy ra, giảm bớt cường lực của
những kháng cự tâm lý trước những yêu sách của đào tạo.
Đừng
quên sự kiện một người có thể đạt được sự trưởng thành kitô và ơn gọi không luôn
được chước miễn khỏi những khó khăn và căng thẳng, vẫn cần có kỷ luật nội tâm,
tinh thần hy sinh, chấp nhận vất vả và thập giá, tín thác vào sự trợ giúp thiết
yếu của ân sủng.
(10)
Một ứng sinh, dù có cố gắng với hỗ trợ của chuyên gia tâm lý và bệnh lý, vẫn tỏ
ra không có năng lực đối diện với thực tế và thiếu trưởng thành nghiêm trọng như
quá lệ thuộc tình cảm, thiếu tự do và quân bình trong các tương quan, tính tình
nghiêm khắc quá độ, thiếu trung tín, căn tính phái tính không rõ rang, khuynh
hướng đồng tính mạnh, khó khăn hiển nhiên và như một nghĩa vụ nặng nề trong việc
sống độc thân khiết tịnh… thì phải cho thôi.
IV.
Cần có những điều tra đặc biệt và kính trọng sự riêng tư của ứng sinh
(11)
Hội Thánh có quyền và bổn phận chọn và đánh giá phẩm chất, sức khoẻ thể lý và
tâm lý của ứng sinh cho phù hợp với tác vụ mục tử (x. GL 1051). GL 1052 nói đến
các điều kiện để Giám mục phong chức hay từ chối ứng sinh, dựa vào sự lượng giá
tâm lý về nhân cách và tính thích hợp. Ứng sinh không thể áp đặt điều kiện cá
nhân của mình, nhưng phải chấp nhận các điều kiện của Hội Thánh, với khiêm tốn
và biết ơn.
(12)
Định chế đào tạo không được vi phạm quyền về thanh danh, về bảo mật riêng tư của
ứng sinh (GL 220), nghĩa là việc tham vấn tâm lý phải được ứng sinh hiểu biết và
tự do đồng ý rõ ràng trước.
Nhà
đào tạo phải bảo đảm bầu khí tín nhiệm để ứng sinh mở lòng cộng tác cách tin
tưởng và thân tình vào việc phân định và đồng hành. Còn ứng sinh phải cởi mở
chân thành và tín nhiệm để nhà đào tạo hiểu mình thì mới được trợ giúp hữu hiệu
trong tiến trình thiêng liêng.
Bầu
khí giáo dục, cởi mở và trong sáng giữa nhà đào tạo và ứng sinh mang tính quyết
định. Đừng để ứng sinh hiểu lầm rằng cho tham vấn tâm lý là mở đầu cho việc thải
hồi. Ứng sinh được quyền chọn chuyên gia tâm lý do nhà đào tạo đề nghị hay được
nhà đào tạo chấp nhận.
Nhà
đào tạo không áp chế ứng sinh tham vấn tâm lý và sẽ thận trọng dựa vào những gì
mình biết để phân định ứng sinh, theo GL 1052,1.
V.
Tương quan giữa nhà đào tạo và chuyên gia tâm lý
a.
Các người có trách nhiệm tòa ngoài
(13)
Với sự đồng ý tự do bằng văn bản của ứng sinh, chuyên gia tâm lý cung cấp kết
quả tham vấn cho nhà đào tạo (tòa ngoài) sử dụng để nghiên cứu một toàn cảnh về
ứng sinh hầu rút ra nhũng chỉ dẫn phù hợp cho việc đào tạo hay cho chịu chức.
Để
bảo vệ sự riêng tư và thanh danh của ứng sinh, chuyên gia tâm lý chỉ cung cấp
thông tin cho một mình nhà đào tạo, và nhà đào tạo bị cấm sử dụng cho mục đích
khác ngoài việc phân định ơn gọi và đào tạo ứng sinh.
b.
Tính chuyên biệt của việc linh hướng
(14)
Việc linh hướng thuộc lãnh vực lương tâm, các phân tích và hỗ trợ tâm lý không
thể thay thế; nhưng khi cần, vị linh hướng có thể gợi ý tham vấn tâm lý để làm
sáng tỏ các nghi vấn không thể giải quyết được, hầu được chắc chắn hơn trong
việc phân định và đồng hành thiêng liêng, nhưng không bao giờ được áp đặt ứng
sinh (x. PDV số 40c).
Ứng
sinh thông tri kết quả cho vị linh hướng, hoặc vị linh hướng lấy trực tiếp từ
chuyên gia với sự đồng ý bằng văn bản của ứng sinh. Vị linh hướng rút ra những
chỉ dẫn và lời khuyên thích đáng cho ứng sinh, kể cả việc nên tiếp tục hay
không.
c.
Sự trợ giúp của chuyên gia đối với ứng sinh và nhà đào tạo
(15)
Chuyên gia tâm lý giúp ứng sinh hiểu mình, các tiềm năng và thương tích của
mình, cũng như những khó khăn và hệ lụy của chúng đối với đời sống và sứ vụ linh
mục tương lai, để đối diện với lý tưởng ơn gọi bằng nhân cách riêng của mình hầu
có được sự gắn bó cá nhân, tự do và ý thức vào việc tự đào tạo chính mình.
Với
sự đồng ý bằng văn bản của ứng sinh, chuyên gia tâm lý giúp nhà đào tạo hiểu
loại nhân cách và những vấn đề ứng sinh đang đối diện hay phải đối diện; đồng
thời cho biết những khả thể tăng trưởng nhân cách của ứng sinh, gợi ý những hình
thức hỗ trợ tâm lý để nhà đào tạo giúp ứng sinh cách hữu hiệu.
VI.
Những người bị thải hồi hay tự ý bỏ tu
(16)
Không được tiếp nhận người đã tự ý bỏ tu hay bị thải hồi trước khi có được những
thông tin cần thiết về lý do bị thải hồi hay bỏ tu từ Giám mục hay Bề trên liên
hệ (x. GL 241,3).
Nhà
đào tạo trước có bổn phận cung cấp cho nhà đào tạo mới các thông tin chính xác
về ứng sinh bị thải hồi. Cần đặc biệt chú ý ứng sinh tự ý bỏ tu để tránh sự thải
hồi áp đặt.
Ứng
sinh chuyển tu phải cho nhà đào tạo mới biết kết quả tham vấn tâm lý đã thực
hiện trước đó. Phải có sự đồng ý bằng văn bản của ứng sinh này, nhà đào tạo mới
mới được lấy thông tin từ chuyên gia đã thực hiện cuộc tham vấn ấy, kể cả ứng
sinh bị thải hồi đã có qua một chữa trị tâm lý, để biết chính xác về tình trạng
tâm lý của anh.
Nếu
một ứng sinh chuyển tu đã nhờ tới chuyên gia tâm lý mà không chấp nhận sự điều
tra của nhà đào tạo mới thì sự phù hợp của ứng sinh phải được chứng nghiệm bằng
những luận chứng tích cực theo GL 1052.
Kết
luận
Bất
cứ ai tham gia đào tạo hãy xác tín cộng tác sao cho việc phân định, đồng hành và
đào tạo thiêng liêng cho các ứng sinh được thích đáng để chỉ đưa tới chức linh
mục những kẻ được kêu gọi, đáp trả ý thức, tự do gắn bó và dấn than trọn vẹn cho
Chúa Kitô, sống than mật với Ngài và chia sẻ sứ mệnh cứu rỗi của Ngài (x. PDV số
42c).
|