Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 121, Chúa Nhật 13.06.2010


MỤC LỤC 

Hày đến mà xem ơn gọi Linh Mục trong mục vụ của Giáo Hội             ĐTC. GioanPhaolo 2

THƯ CHỊ THÁNH TÊRÊXA VIẾT CHO NGƯỜI ANH EM LINH MỤC (4)           Nobertô Thái Văn Hiến (dịch)

Nguời nghèo và số sót                                                              Lm. An-rê Đỗ xuân Quế O.P

ĐỐI THOẠI                                                                                          Gioan Lê Quang Vinh

GP. Hưng Hoá: Lang Thíp, Gian nan con đường đem Tin Mừng cứu rỗi các Linh Hồn 
J.B Nguyễn Hữu Vinh

NĂM THÁNH LINH MỤC 2010.                                                   Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Ghen (3)                                                                                                 Lm. Lê Văn Quảng

SỨC MẠNH CỦA THA THỨ                                                                         Br. Huynhquảng  

NHÌN NHẬN SỰ BÌNH ĐẲNG CỦA VỢ                               Lm. Minh Anh, tổng hợp biên tập

KHÍA CẠNH TÂM LÝ VÀ TÍNH DỤC TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI                 Lm. MP.Trần Minh Huy, pss.

DINH DƯỠNG Ở TUỔI GIÀ                                                          Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. 

Tiếng Việt -                                                                                  Chuyện phiếm của Gã Siêu


HÃY ĐẾN MÀ XEM ƠN GỌI LINH MỤC TRONG MỤC VỤ CỦA GIÁO HỘI

 

TÔNG HUẤN PASTORES DABO VOBIS
VỀ VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY

Nguồn: http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/10/03/tong-huan-pastores-dabo-vobis/

CHƯƠNG IV:

HÃY ĐẾN MÀ XEM ƠN GỌI LINH MỤC TRONG MỤC VỤ CỦA GIÁO HỘI

Tìm theo, ở lại.

34. “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39). Đức Giêsu đã trả lời cho hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả như thế, khi hai vị hỏi Ngài ở đâu. Chúng ta tìm thấy nơi câu nói này ý nghĩa của ơn gọi.

Sau đây là cách mà thánh Gioan tác giả Tin Mừng thuật lại ơn gọi của Anrê và Phêrô: “Ngày hôm sau, Gioan lại có mặt ở đó cùng với hai môn đệ của mình. Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan đưa mắt hướng nhìn Ngài và nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa’. Hai môn đệ nghe nói thế liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại và thấy họ theo Ngài. Ngài nói với họ: “Các anh muốn gì?” Họ trả lời: “Rabbi (nghĩa là Thưa Thầy), Thầy ở đâu ?” Ngài nói: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và đã xem thấy nơi Ngài ở và họ ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Lúc đó độ chừng giờ thứ mười.

“Anrê, em Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe lời Gioan và đã đi theo Đức Giêsu. Trước hết, Anrê gặp Simon anh mình và nói với anh: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia’ – nghĩa là Đức Kitô. Anrê dẫn anh đến với Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: ‘Anh là Simon, con ông Gioan; anh sẽ được gọi là Kêpha’ – nghĩa là Đá” (Ga 1,35-42).

Trang Tin Mừng này là một trong nhiều trang Sách Thánh mô tả “mầu nhiệm” ơn gọi; trong trường hợp hiện tại, điều được đề cập là mầu nhiệm ơn gọi nơi các Tông Đồ của Đức Giêsu. Trang Tin Mừng của Gioan cũng có ý ám chỉ ơn gọi Kitô hữu nói chung, nhưng lại có giá trị mẫu mực cho ơn gọi linh mục. Với tư cách là cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu, Giáo Hội được mời gọi gắn chặt cái nhìn của mình vào hoạt cảnh này là hoạt cảnh, một cách nào đó, không ngừng tái diễn trong lịch sử. Giáo Hội được mời gọi đào sâu ý nghĩa nguyên tuyền và ngã vị của lời mời gọi đi theo Đức Kitô trong thừa tác vụ linh muc, đào sâu mối liên hệ bất khả phân giữa ân sủng của Thiên Chúa với trách nhiệm của con người, mối liên hệ được gồm chứa và được mạc khải trong lời mời mọc mà chúng ta gặp thấy nhiều lần trong Tin Mừng: hãy đến và theo Ta (x. Mt 19,21). Giáo Hội được mời gọi cắt nghĩa và mô tả sự năng động đặc thù của ơn gọi, sự phát triển từng cấp và cụ thể theo những giai đoạn sau: tìm Đức Giêsu, theo Ngài và ở lại với Ngài.

Giáo Hội tìm thấy trong “Tin Mừng về ơn gọi” này mẫu mực, sức mạnh và niềm hăng say cần thiết cho mục vụ của Giáo Hội về ơn gọi, nghĩa là sứ vụ nhắm tới việc chăm lo cho sự nảy sinh, cho sự phân định và cho sự sát cánh các ơn gọi, cách riêng ơn gọi hướng đến chức linh mục. Bởi vì “thiếu hụt linh mục chắc chắn là nỗi buồn của toàn thể Giáo Hội” (92), mục vụ các ơn gọi, nhất là ngày nay, cần phải được khởi xướng với một niềm hăng say mới, mãnh liệt và xác định hơn, do mọi thành phần trong Giáo Hội. Cần phải xác tín rằng nền mục vụ ấy không phải là một yếu tố đệ nhị hoặc phụ tùy, không phải là một thì biệt lập hoặc hạn hữu như thể là đơn thuần một “phần”, cho dẫu có quan trọng đến đâu, trong nền phục vụ bao quát của Giáo Hội. Đúng hơn, theo như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã lặp lại, đó là một sinh hoạt mật thiết lồng vào trong nền mục vụ chung của toàn thể Giáo Hội (93), một trọng trách cần phải được tháp nhập và phải được đồng hoá trọn vẹn với cái mà người ta thường gọi là “trọng trách đối với các linh hồn” (94), một chiều kích đồng bản chất và thiết yếu với mục vụ của Giáo Hội, cũng giống như với sự sống và sứ vụ của Giáo Hội (95).

Đúng vậy, chủ đề ơn gọi có cùng bản chất với mục vụ của Giáo Hội và thiết yếu đối với nền mục vụ ấy. Sở dĩ như thế là bởi vì, hiểu theo một nghĩa nào đó, ơn gọi tạo thành hữu thể thâm sâu của Giáo Hội ngay cả trước khi ơn gọi được tác động. Ecclesia, danh xưng của Giáo Hội, chỉ dẫn cho thấy bản chất của Giáo Hội gắn liền một cách sâu rộng với ơn gọi, bởi vì Giáo Hội thật sự là “triệu tập”, là tập thể qui tụ những ai được mời gọi: “Cái tập thể qui tụ những người trong niềm tin ngước nhìn Đức Giêsu, tác giả ơn cứu độ, nguyên lý hiệp nhất và bình an ấy, Thiên Chúa đã triệu tập và đã làm thành Giáo Hội, để cho tập thể này, đối với con mắt mọi người và từng người, trở nên bí tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu độ” (96).

Chỉ bằng cách khởi đi từ mầu nhiệm Giáo Hội, xét như là mysterium vocationis, người ta mới có thể đọc được một cách thuần túy thần học cái gọi là ơn gọi linh mục và cái gọi là mục vụ liên quan tới ơn gọi ấy.

Giáo Hội và ơn gọi được ban tặng.

35. Ơn gọi Kitô hữu nào cũng đặt nền tảng trên sự tuyển chọn nhưng không và khởi xướng trước từ phía Chúa Cha “Đấng đã chúc lành cho chúng ta bằng đủ loại phúc lành thiêng liêng, trên trời, trong Đức Kitô. Chính bởi đó mà Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong Ngài, ngay cả trước khi tạo dựng thế giới, để chúng ta trở nên thánh thiện và vô tì vết dưới con mắt Ngài, trong tình yêu, và, ngay từ trước, đã xác định cho chúng ta được nên dưỡng tử của Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô. Đó chính là sở nguyện trong ý định của Ngài” (Ep 1,3-5).

Mọi ơn gọi Kitô hữu đều phải phát xuất từ Thiên Chúa, đều là ân huệ của Thiên Chúa; thế nhưng không bao giờ ơn gọi Kitô hữu được ban ngoài Giáo Hội và không lệ thuộc vào Giáo Hội. Ơn gọi Kitô hữu luôn luôn ngang qua Giáo Hội và trong Giáo Hội bởi vì, như lời nhắc nhở của Công Đồng Vaticanô II, “Thiên Chúa đã không muốn cho con người lãnh nhận sự thánh hoá và ơn cứu độ một cách lẻ loi bên ngoài mọi liên hệ hỗ tương; ngược lại, Ngài đã muốn làm cho con người trở thành một dân tộc, một dân tộc nhận biết Ngài theo đúng sự thật và phục vụ Ngài trong thánh thiện” (97).

Chẳng những Giáo Hội đón nhận trong nhà mình tất cả mọi ơn gọi mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội trên lối đường cứu độ của mình, nhưng chính Giáo Hội còn mặc lấy cho mình những đường nét của một mầu nhiệm ơn gọi, phản ảnh sống động và rạng rỡ của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong thực tế, là “dân kết tụ thành một nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (98), Giáo Hội cưu mang nơi chính mình mầu nhiệm của Chúa Cha, Đấng không ai kêu mời cũng không do ai sai phái (x. Rm 11,33-35), Đấng mời gọi mọi người thánh hoá danh Ngài và chu toàn ý muốn của Ngài; Giáo Hội cưu mang nơi chính mình mầu nhiệm của Chúa Con, Đấng được Chúa Cha mời gọi và sai đến để loan báo Nước Thiên Chúa cho mọi người, Đấng mời gọi mọi người đi theo Ngài. Sau hết Giáo Hội nắm giữ mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hiến cho sứ vụ tất cả những người nam và người nữ mà Chúa Cha kêu gọi nhờ Con Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Tự bản chất là “ơn gọi”, Giáo Hội sinh thành các ơn gọi và đồng thời giáo dục các ơn gọi. Giáo Hội làm công việc ấy trong chính thực thể “bí tích” của mình, với tư cách là “dấu chỉ” và là “khí cụ” trong đó ơn gọi Kitô hữu vang vọng và được chu toàn; Giáo Hội làm công việc ấy trong hoạt động của mình, nghĩa là trong việc thi hành thừa tác vụ loan báo Lời Chúa, cử hành các bí tích, phục vụ và làm chứng cho đức ái.

Bởi đó cần phải lưu ý rằng ơn gọi Kitô hữu thoạt tiên ngang một chiều kích Giáo Hội. Ơn gọi không chỉ phát xuất “từ”Giáo Hội và từ vai trò trung gian của Giáo Hội; ơn gọi không chỉ được nhận biết và thực hiện “trong” Giáo Hội; nhưng – trong việc phục vụ cơ bản nhằm đáp đền cho Thiên Chúa – ơn gọi cũng tự bày tỏ một cách thiết yếu như là làm công việc phục vụ “cho” Giáo Hội. Dưới mọi hình thức, ơn gọi Kitô hữu là một hồng ân nhắm mục đích xây dựng Giáo Hội, làm tăng triển Nước Thiên Chúa trên thế giới (99).

Những gì chúng ta nói về mọi ơn gọi Kitô hữu được thể hiện cách riêng trong ơn gọi linh mục. Ơn gọi này, nhờ bí tích Truyền Chức Thánh được lãnh nhận trong Giáo Hội, là một lời mời gọi đặt mình vào việc phục vụ dân Thiên Chúa với tư cách đặc biệt thuộc về Đức Giêsu Kitô và nên đồng hình dạng với Ngài, đồng thời bao gồm quyền hành động “nhân danh và thay mặt” Đấng Đầu và Mục Tử của Giáo Hội.

Trong nhãn quan ấy, chúng ta hiểu được điều mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng viết: “Ơn gọi của mỗi linh mục hiện hữu trong Giáo Hội và cho Giáo Hội: chính nhờ Giáo Hội mà ơn gọi ấy được thể hiện. Từ đó, mọi linh mục lãnh nhận ơn gọi của Chúa, qua trung gian Giáo Hội, như một hồng ân diễm phúc, một ân sủng gratis data (đặc sủng). Giám mục hoặc vị bề trên có thẩm quyền chẳng những có bổn phận duyệt xét, nhưng còn có bổn phận công nhận khả năng thích ứng và ơn gọi của ứng sinh. Một sự can thiệp của Giáo Hội như thế vốn nằm trong ơn gọi hướng đến thừa tác vụ linh mục hiểu theo đúng nghĩa. Ứng sinh của hàng linh mục phải lãnh nhận ơn gọi mà không áp đặt những điều kiện riêng tư của bản thân mình, nhưng lại chấp nhận những tiêu chuẩn và điều kiện do chính Giáo Hội đề ra theo đúng trách nhiệm thuộc về Giáo Hội” (100).

Cuộc đối thoại trong ơn gọi : Thiên Chúa đề xướng và con người đáp trả.

36. Lịch sử của mọi ơn gọi linh mục, cũng như đàng khác của mọi ơn gọi Kitô hữu, là lịch sử của một cuộc đối thoại khôn tả giữa Thiên Chúa và con người, giữa tình yêu của Thiên Chúa là Đấng mời gọi với tự do của con người là kẻ đáp lại Thiên Chúa trong tình yêu. Hai khía cạnh bất khả phân ly ấy của ơn gọi, ân huệ nhưng không của Thiên Chúa và tự do hữu trách của con người, được mô tả một cách rất rõ ràng và hết sức mạnh mẽ trong những lời vắn gọn những vững chắc qua đó thánh Máccô tác giả Tin Mừng trình bày ơn gọi của Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu “leo lên núi và Ngài gọi những kẻ Ngài muốn đến với Ngài. Họ đã đến với Ngài” (3,13). Một đàng, có sự quyết định tuyệt đối tự do của Đức Giêsu, đàng khác có việc Nhóm Mười Hai “đến”, hay nói cách khác, việc họ “đi theo Đức Giêsu”.

Đó chính là mẫu mực có giá trị trường tồn, là những dữ kiện bất khả phân ly của mọi ơn gọi: ơn gọi của các ngôn sứ, của các tông đồ, của các linh mục, của các tu sĩ, của các tín hữu giáo dân, của mọi người.

Thế nhưng, yếu tố chiếm hoàn toàn ưu thế và còn là tiên quyết và có tính định đoạt, đó là sự can thiệp tự do và nhưng không của Thiên Chúa, Đấng mời gọi. Thiên Chúa có sáng kiến mời gọi. Chẳng hạn, đây là kinh nghệm của ngôn sứ Giêrêmia: “Lời Chúa đã ngỏ với tôi như thế này : ‘Trước khi ngươi hình thành trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi được đưa vào vùng ánh sáng, Ta đã thánh hiến ngươi; Ta đã đặt ngươi làm ngôn sứ cho muôn dân’” (Gr 1,4-5). Thánh Tông Đồ Phaolô đã trình bày cùng một chân lý ấy, ngài gắn chặt mọi ơn gọi vào sự tuyển chọn từ muôn thuở của Đức Kitô, sự tuyển chọn đã được thực hiện “trước khi tạo dựng vũ trụ” và “tùy theo sở nguyện của ý định Ngài” (Ep 1,5). Ưu thế tuyệt đối của ân sủng trong ơn gọi được khẳng định một cách rõ rệt nhất trong lời của Đức Giêsu: “Không phải anh em đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn anh em và cắt đặt anh em để anh em ra đi và mang lại hoa trái và để hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16).

Nếu tính ưu việt của ân sủng là điều được ơn gọi linh mục chứng tỏ một cách không thể bàn cãi, thì quyết định tự do và tối thượng của Thiên Chúa trong việc mời gọi con người lại đòi hỏi phải được tôn trọng một cách tuyệt đối: quyết định ấy không hề có thể bị ép buộc do bất cứ một tham vọng nào của con người, cũng không thể được thay thế bởi bất cứ một quyết định nào của con người. Ơn gọi là điều được ban tặng do ân sủng của Thiên Chúa chứ không bao giờ là một quyền lợi của con người. Chính vì thế, “không bao giờ được coi đời sống linh mục như là một sự thăng tiến thuần túy nhân bản, cũng như không bao giờ được coi sứ vụ của thừa tác viên như là một phương án đơn thuần của con người” (101). Từ đó, cần phải triệt để loại trừ mọi kỳ vọng hoặc cao vọng từ phía những người được kêu gọi (x. Dt 5,4). Trọn vẹn khoảng thiêng liêng trong con tim cần phải được phủ lấp bằng một niềm tri ân đầy thán phục và cảm mến, và bằng một niềm hy vọng không hề chuyển lay, bởi vì các ứng sinh nhận thức rằng nguồn cậy dựa của họ không phải ở nơi sức lực riêng của họ, nhưng chỉ ở nơi sự trung thành vô điều kiện của Thiên Chúa là Đấng mời gọi.

“Ngài gọi những kẻ Ngài muốn và họ đến với Ngài” (Mc 3,13). Việc họ “đến”, ở đây cũng đồng thời là việc họ nối gót “theo” Đức Giêsu, diễn tả sự đáp trả tự do của Nhóm Mười Hai trước lời mời gọi của Đấng là Thầy. Trường hợp của Phêrô và Anrê cũng y như vậy: “Ngài nói với họ: ‘Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các anh trở nên những ngư phủ chài lưới người”. Và lập tức họ đã bỏ lưới mà đi theo Ngài” (Mt 4,19-20). Kinh nghiệm của Giacôbê và Gioan cũng tương tự như thế (x. Mt 19,21-22). Và cứ như thế, mãi mãi, trong ơn gọi, có sự chiếu sáng cùng với nhau của tình yêu nhưng không từ phía Thiên Chúa và của sự vươn lên cao nhất có thể từ phía tự do con người, tự do gắn bó với lời mời gọi của Thiên Chúa và tự do tin cậy nơi Ngài.

Quả thật, ân sủng và tự do không đối chọi nhau. Ngược lại, ân sủng thôi thúc và nâng đỡ tự do nhân linh, giải thoát tự do ấy khỏi ách nô lệ của tội (x. Ga 8,34-36), cứu chữa tự do ấy và nâng cao tự do ấy trong những khả năng cởi mở và đón nhận hồng ân của Thiên Chúa. Nếu như sự khởi xướng hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa Đấng mời gọi là điều không thể phản bác thì, cũng vậy và hơn nữa, không thể chối bỏ tính nghiêm trọng tột bực trong tự do của con người khi phải đương đầu và đáp trả. Chính vì thế mà đáp lại lời mời “hãy đến và theo Ta” của Đức Giêsu, người thanh niên giầu có đối chọi bằng sự từ chối, là dấu chỉ – mặc dầu tiêu cực – cho thấy tự do của anh: “nhưng khi nghe những lời ấy, anh ta sa sầm nét mặt và buồn bã bỏ đi, vì anh ta có lắm tiền nhiều của” (Mc 10,22).

Do đó, tự do là thiết yếu cho ơn gọi, một sự tự do, trong lời đáp trả tích cực, mặc lấy ý nghĩa của một sự gắn bó bản ngã sâu đậm, với tính cách trao hiến tình yêu hay đúng hơn với tính cách trả nợ cho Đấng Trao Ban là Thiên Chúa, tác giả của lời mời gọi, với tính cách tận hiến. Đức Phaolô VI đã nói: “Lời mời gọi đối xứng với lời đáp trả. Chỉ có thể có những ơn gọi tự do, nghĩa là những ơn gọi chấp nhận dâng hiến chính mình một cách hồn nhiên, ý thức, quảng đại, toàn diện… Chúng tôi gọi ơn gọi là những của lễ: và trong cụ thể, đó là đích thực vấn đề. Ngày hôm nay cũng như hôm qua và còn hơn hôm qua, Đức Kitô vẫn nói bằng một giọng nói nhỏ nhẹ và xuyên thấu: “Hãy đến”. Tự do được đặt trước thử thách cao cả nhất: đúng vậy, đó là tự do trở thành của lễ, tự do dẫn tới sự quảng đại, lòng hy sinh” (102).

Làm thành hạt nhân mật thiết nhất trong lời đáp trả của con người trước Thiên Chúa Đấng mời gọi, của lễ tự do tìm được mẫu mực không thể sánh ví hay đúng hơn, cội rễ sắc bén của nó trong của lễ rất tự do của Đức Giêsu Kitô, vị tiên phong của những ai được mời gọi, dâng theo ý muốn của Chúa Cha: “Chính vì thế, khi bước vào thế giới, Đức Kitô nói: ‘Hy sinh và lễ vật Ngài đã chẳng ưng, nhưng Ngài đã tác thành thân thể cho con… Vậy con xin thưa: Này đây, lạy Thiên Chúa, con xin đến để thực hành thánh ý Ngài” (Dt 10,5-7).

Trong sự hiệp thông mật thiết với Đức Kitô, Đức Maria Mẹ Đồng Trinh đã là tạo vật hơn tất cả mọi tạo vật sống trọn vẹn chân lý ơn gọi, bởi vì không một ai đã đáp trả như Đức Maria bằng một tình yêu cao cả đến thế đối lại tình yêu bao la của Thiên Chúa (103).

37. “Nhưng khi nghe những lời ấy, anh ta sa sầm nét mặt và buồn bã bỏ đi, bởi vì anh ta có lắm tiền nhiều của” (Mc 10,22). Người thanh niên giàu có trong Tin Mừng đã không đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu, nhắc nhở cho chúng ta những trở ngại lớn lao có thể làm bế tắc hoặc ngăn cản sự đáp trả tự do từ phía con người: chẳng những của cải vật chất có thể khép chặt lòng người trước những giá trị của Thần Khí và trước những đòi buộc triệt để của Nước Thiên Chúa, mà ngay cả một số điều kiện xã hội và văn hoá thời đại cũng có thể tạo ra nhiều mối đe dọa và có thể áp đặt những nhãn giới lêch lạc và sai lầm về bản chất thật sự của ơn gọi, làm cho sự đón nhận và cả đến sự thấu hiểu trở nên khó khăn nếu không nói là bất khả thực hiện.

Nhiều người hình dung về Thiên Chúa bằng một ý niệm khái quát và mơ hồ đến độ gần giống với những hình thức tôn giáo phi Thiên Chúa trong đó người ta quan niệm thánh ý Thiên Chúa như là một thứ định mệnh cố định và bất khả tránh né mà con người chỉ có việc thích nghi và cam chịu một cách hoàn toàn thụ động. Nhưng đó không phải là dung nhan Thiên Chúa mà Đức Giêsu Kitô đã muốn mạc khải cho chúng ta. Thực ra, Thiên Chúa là Cha và, bằng một tình yêu vĩnh cữu cho Ngài khởi xướng trước, Ngài kêu gọi con người và móc nối với con người một cuộc đối thoại kỳ diệu và lâu bền, mời con người chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài với tư cách làm con. Chắc chắn rằng với một cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa, con người còn không thể hiểu được chính mình là như thế nào cho đúng với sự thật, bởi vì ơn gọi không thể nào được tri thức và cảm nhận trong giá trị chính hiệu của nó: ơn gọi lúc ấy chỉ có thể được nhận chịu như là một gánh nặng áp đặt và không chịu đựng nổi.

Cũng vậy, một số tư tưởng sai lạc về con người, thường được biện minh bởi những luận chứng mệnh danh là triết lý hay khoa học, một đôi khi dẫn con người đến chỗ quan niêm cuộc hiện hữu của mình và tự do của mình như là hoàn toàn được ấn định và chi phối bởi những yếu tố bên ngoài thuộc cấp trật giáo dục, tâm lý, văn hoá hay xã hội. Trong một số trường hợp, tự do được hiểu bằng những từ ngữ như sự độc lập tuyệt đối, tự coi mình là nguồn cội duy nhất và tối hậu của những lựa chọn cá nhân, tự định nghĩa như là sự khẳng định chính mình với bất cứ giá nào. Nhưng, bằng cách đó, không thể nào hiểu và sống ơn gọi như một cuộc đối thoại tự do bằng tình yêu là cuộc đối thoại nảy sinh từ mối thông hiệp giữa Thiên Chúa với con người và hoàn tất, nơi con người, bằng sự trao hiến chính mình một cách chân thành.

Trong bối cảnh hiện đại, người ta cũng gặp thấy một xu hướng tư duy về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người theo cách thế của chủ nghĩa cá nhân và của chủ nghĩa thân tình, coi lời mời gọi của Thiên Chúa như thể được ngỏ với từng cá nhân một cách trực tiếp, không hề qua trung gian của cộng đoàn, và coi lời mời gọi ấy như thể nhắm đến mục tiêu là một lợi ích, hoặc là ơn cứu độ của từng ứng sinh chớ không phải là sự trao hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa nhằm phục vụ cộng đoàn. Chúng ta cũng còn gặp một mối đe dọa khác thâm sâu hơn, đồng thời tinh vi hơn : mối đe dọa ngăn cản nhận biết và đón mừng chiều kích Giáo Hội được khắc ghi do tự bản chất trong mọi ơn gọi Kitô hữu, đặc biệt trong ơn gọi linh mục. Thật vậy, như Công đồng nhắc nhở, chức linh mục thừa tác đạt được ý nghĩa chính hiệu và thể hiện được chân lý trọn vẹn trong việc phục vụ và trong sự tăng triển của cộng đoàn Kitô hữu và của chức tư tế thuộc về giáo dân (104).

Bối cảnh văn hoá chúng ta vừa gợi lên, mà ảnh hưởng chắc hẳn lan tới các Kitô hữu, đặc biệt tới những người trẻ, giúp hiểu được tầm cỡ của cuộc khủng hoảng chính các ơn gọi linh mục vốn liên can, tự nguồn gốc và trải qua tiến trình phát triển, tới rất nhiều khủng hoàng trầm trọng hơn về đức tin. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã minh bạch tuyên bố điều ấy, các ngài công nhận rằng cuộc khủng hoảng các ơn gọi linh mục có những căn rễ sâu xa trong môi trường văn hoá, trong não trạng và trong cách giữ đạo của các Kitô hữu (105).

Bởi đó, điều khẩn thiết là mục vụ về các ơn gọi của Giáo Hội phải dứt khoát và ưu tiên chăm lo lái tập “não trạng Kitô giáo”, phát sinh từ đức tin và được đức tin nâng đỡ. Hơn bao giờ hết, công cuộc phúc âm hoá hệ tại chỗ trình bày một cách không nhàm chán khuôn mặt thật của Thiên Chúa là Cha Đấng trong Đức Giêsu Kitô, kêu gọi mỗi người chúng ta, đồng thời trình bày ý nghĩa chính hiệu của tự do nhân linh, xét như là nguyên lý và là sức mạnh của sự trao hiến chính mình một cách có trách nhiệm. Chỉ bằng cách đó mới có thể thiết lập được những nền tảng cần thiết để cho mọi ơn gọi, kể cả ơn gọi linh mục, có thể được cảm nhận trong chân lý của nó, được quí mến trong vẻ đẹp của nó, và được sống với lòng tận tụy hoàn toàn và với niềm vui sâu xa.

Nội dung của mục vụ các ơn gọi và những phương thế được ứng dụng.

38. Ơn gọi chắc chắn là một mầu nhiệm không thể dò thấu bao hàm mối tương quan mà Thiên Chúa thiết lập với con người: độc nhất và không thể văn hồi; là mầu nhiệm được truy nhận và cảm nghiệm như một lời mời gọi đón chờ một sự đáp trả đến từ nơi thâm cung của lương tâm, “nơi thánh điện, ở đó con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và ở đó tiếng Chúa được đón nghe” (106). Thế nhưng điều ấy không loại bỏ chiều kích cộng đồng và đặc biệt chiều kích Giáo Hội của ơn gọi; Giáo Hội cũng thực sự hiện diện và hành động trong ơn gọi của mọi linh mục.

Nhằm phục vụ ơn gọi linh mục cũng như hành trình của ơn gọi ấy, nghĩa là sự hình thành, sự phân định và sự sát cánh ơn gọi, Giáo Hội có thể tìm được mẫu gương nơi Anrê, một trong hai môn đệ đầu tiên đã đi theo Đức Giêsu. Chính Anrê đã thuật lại cho người anh điều đã xảy đến cho mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (nghĩa là Đấng Kitô)” (Ga 1,44). Và lời tường thuật cuộc “khám phá” ấy mở lối cho cuộc gặp gỡ: “Và Anrê dẫn anh mình đến với Đức Giêsu” (Ga 1,42). Không hề có thể hoài nghi về sự đề xướng hoàn toàn tự do và về quyết định tối thượng của Đức Giêsu chính Đức Giêsu gọi Simon và đặt cho Simon một tên mới: “Đức Giêsu nhìn Simon và nói: ‘Ngươi là Simon con ông Gioan; ngươi sẽ được gọi là Kêpha’ (nghĩa là Đá)” (Ga 1,42). Thế nhưng Anrê cũng đã góp phần trong sự đề xướng : Anrê đã khuyến khích anh mình đi gặp Đức Giêsu.

“Và Anrê dẫn anh mình đến với Đức Giêsu”. Chính ở đây, hiểu theo một nghĩa nào đó, chúng ta gặp thấy tâm điểm của mọi nền phục vụ về ơn gọi qua đó Giáo Hội quan tâm đến sự hình thành và đến sự tăng triển của các ơn gọi, bằng cách sử dụng những ân huệ và những trách nhiệm, những đặc sủng và thừa tác vụ đã lãnh nhận từ nơi Đức Kitô và từ nơi Thần Khí của Ngài. Với tư cách là dân tư tế, ngôn sứ và vương giả, Giáo Hội có trọng trách cổ võ và phục vụ sự hình thành cũng như sự chín muồi của các ơn gọi linh mục, nhờ kinh nguyện và đời sống bí tích, nhờ việc loan báo Lời Chúa và việc giáo dục đức tin, dưới ảnh hưởng và với chứng từ của đức ái.

Trong phẩm vị và trong trách nhiệm làm dân tư tế. Giáo Hội chỉ dẫn cho thấy kinh nghiệm và việc cử hành phụng cụ là những nhịp cốt yếu và tiên khởi của mục vụ các ơn gọi. Quả vậy, được Lời Chúa nuôi dưỡng, kinh nghiệm Kitô giáo tạo nên khoảng không gian lý tưởng để cho mỗi người có thể khám phá ra chân lý của hữu thể mình và căn tính của phương án đời sống, cá vị và duy nhất, mà Chúa Cha tạo tác cho mình. Do đó, điều cần thiết là phải giáo dục các thiếu nhi và thanh niên sao cho họ trung thành với việc cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa; trong thinh lặng và đón nghe, họ sẽ có thể nhận ra được lời mời gọi của Chúa tiến đến chức linh mục và mau mắn quảng đại đi theo Ngài.

Giáo Hội phải đón nhận mỗi ngày lời mời gọi bức bách và khẩn thiết của Đức Giêsu, Ngài yêu cầu “cầu nguyện với Chủ mùa gặt để Chủ ấy sai thợ đến gặt hái” (Mt 9,38). Tuân theo giới lệnh của Đức Kitô, trên hết mọi sự, Giáo Hội chu toàn việc khiêm tốn tuyên xưng đức tin: trong khi cầu nguyện cho các ơn gọi vì cảm nhận được sự khẩn cấp của ơn gọi đối với đời sống và sứ vụ của mình, Giáo Hội nhận ra rằng các ơn gọi là hồng ân của Thiên Chúa và, xét theo bản chất, các ơn gọi ấy phải được van xin bằng một sự cầu khẩn liên lỉ và tín thác. Chẳng những từng người nhưng là toàn thể các cộng đoàn Giáo Hội cần phải thực hành việc cầu nguyện vì đó là điểm tựa, là giá đỡ nâng của mọi nền mục vụ các ơn gọi. Không ai còn nghi ngờ về tâm quan trọng của những sáng kiến đặc thù trong việc cầu nguyện, của những thời khắc đặc biệt dành riêng cho yêu cầu ấy, trước hết phải kể đến Ngày thế giới hằng năm dành cho các ơn gọi, và của sự dấn thân một cách minh thị nơi những người và những nhóm nhạy cảm cách riêng với vấn đề các ơn gọi linh mục. Thế nhưng, ngày nay, sự mong chờ những ơn gọi mới trong việc cầu nguyện phải càng ngày càng trở thành một tập quán trường kỳ với sự tham gia một cách rộng rãi của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo và của trọn vẹn thực thể Giáo Hội. Chính nhờ đó mà người ta có thể lặp lại bằng cuộc sống kinh nghiệm của các Tông Đồ : các ngài đã hiệp nhất với Đức Maria, trong Phòng Tiệc Ly, và đã cầu nguyện để mong chờ sự tuôn đổ Thần Khí (x. Cv 1,14), Đấng vẫn không ngừng khơi dậy từ trong toàn dân Thiên Chúa “những linh mục mà thế giới đang cần đến, để phục vụ cho việc cầu nguyện, cho bí tích Thánh Thể và để loan báo Tin Mừng là Đức Kitô” (107).

Là chóp đỉnh và là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội (108), cách riêng của mọi kinh nguyện Kitô Giáo, phụng vụ cũng chiếm giữ một vai trò cần thiết và một ảnh hưởng biệt đãi trong mục vụ các ơn gọi. Thực ra, phụng vụ tạo thành một kinh nghiệm sống động về ân huệ của Thiên Chúa và một trường học đáng kể cho việc đáp trả lời mời gọi của Ngài. Xét theo bản chất, mọi việc cử hành phụng vụ, nhất là cử hành bí tích Thánh Thể, mang lại rất nhiều hiệu quả. Phụng vụ mạc khải cho chúng ta dung nhan đích thực của Thiên Chúa; phụng vụ laà cho chúng ta thông hiệp vào mầu nhiệm Vượt Qua, nghĩa là vào giờ mà Đức Giêsu đã đến trong thế gian và vào giờ mà Ngài đã tự do và tự nguyện bước tới, vì vâng theo tiếng gọi của Chúa Cha (x. Ga 13,1); sau hết, phụng vụ tỏ lộ cho chúng ta khuôn mặt của Giáo Hội, xét như là đoàn dân tư tế và như là cộng đoàn gắn chặt với nhau một cách keo sơn, với sự dị biệt và bổ khuyết lẫn nhau của các đặc sủng và các ơn gọi. Hy lễ cứu chuộc của Đức Kitô mà Giáo Hội cử hành trong mầu nhiệm, mang lại một giá trị đặc biệt cao quí cho sự khổ đau được cảm nhận bằng cuộc sống trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã mời gọi chúng ta đừng bao giờ quên rằng “nhờ của lễ gồm những khổ đau rất thường tình trong đời sống con người, bệnh nhân Kitô hữu tiến dâng chính mình làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa, theo gương Đức Kitô Đấng đã tự hiến chính mình cho mọi người chúng ta (x. Ga 17,19)” và rằng “của lễ gồm những khổ đau dâng theo ý hướng ấy mang lại ích lợi lớn lao cho sự thăng tiến các ơn gọi” (109).

39. Trong việc thực hành sứ vụ ngôn sứ, Giáo Hội cảm thấy rằng bổn phận không thể né tránh của mình là loan báo và bày tỏ ý nghĩa Kitô Giáo của ơn gọi mà chúng ta có thể gọi là “Tin Mừng về ơn gọi”. Giáo Hội cũng nhận thức trong lãnh vực này sự bức xúc được diễn tả qua lời của Thánh Tông Đồ: “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16). Trên tất cả, lời khuyến cáo ấy vang vọng cho chúng tôi là những mục tử và, đồng thời với chúng tôi, liên can đến mọi nhà giáo dục trong Giáo Hội. Công việc giảng thuyết và huấn giáo phải luôn làm nổi bật những mối tương quan mật thiết với các ơn gọi: Lời Thiên Chúa mang lại cho các tín hữu ánh sáng cần thiết để nhận thấy cuộc đời là một sự đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa sát cánh với các tín hữu để họ đón nhận, trong đức tin, ân huệ ơn gọi bản thân.

Thế nhưng, mặc dầu quan trọng, tất cả những điều ấy vẫn chưa đủ : cần có một “khoa rao giảng trực tiếp về mầu nhiệm ơn gọi trong Giáo Hội, về giá trị của chức linh mục thừa tác, về sự cần thiết bức bách của chức linh mục thừa tác đối với dân Thiên Chúa” (110). Một nền giáo huấn hữu cơ và mở rộng cho mọi thành phần trong Giáo hội giúp xua tan những nghi hoặc, đánh bại những ý niệm một chiều và sai lệch về thừa tác vụ linh mục, đồng thời mở rộng tâm hồn các tín hữu cho việc mong chờ hồng ân và tạo những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành những ơn gọi mới. Đã đến lúc phải can đảm đề cập đến đời sống linh mục như là một giá trị vô song và như là một hình thức sống đời sống Kitô hữu rạng rỡ và ưu việt. Các nhà giáo dục và đặc biệt các linh mục đừng ngần ngại đề xuất một cách minh bạch và mạnh mẽ ơn gọi hướng đến chức linh mục như là một sự khả thi thiết thực đối với những người trẻ có tài năng và có đức tính xứng hợp. Làm như vậy không có nghĩa là chi phối và hạn chế tự do của những người trẻ, ngược lại, một sự đề xuất chính xác, được thực hiện đúng lúc, có thể có giá trị định đoạt để rồi khơi dậy nơi những trẻ một sự đáp trả tự do và chính hiệu. Ngoài ra, lịch sử của Giáo Hội và lịch sử của biết bao ơn gọi linh mục, được nở rộ ngay cả vào lúc tuổi thơ, là một chứng cớ hùng hồn cho tính chất quan phòng của việc sống kề cận với linh mục và của việc nghe lời linh mục nói: không những lời nói nhưng còn là sự kề cận, nghĩa là một chứng từ cụ thể, vui tươi, có khả năng làm trổi hiện những vấn nạn và dẫn đến những quyết định dứt khoát.

40. Với tư cách là dân vương giả, Giáo Hội nhận thức mình được bén rễ trong “lề luật của Thần Khí là Đấng ban sự sống” (Rm 8,2), và được thôi thúc bởi lề luật ấy. Lề luật ấy vốn dĩ thiết yếu là lề luật vương giả của đức ái (x. Gc 2,8) hay lề luật trọn hảo của tự do (x. Gc 1,25). Chính vì thế, Giáo Hội chu toàn sứ vụ của mình khi Giáo Hội dẫn dắt mọi tín hữu khám phá và sống ơn gọi của riêng mình trong tự do và gánh vác ơn gọi ấy cho tới hoàn thành trong đức ái.

Trong công việc giáo dục, với một sự chú tâm biệt đãi, Giáo Hội nhằm khơi dậy nơi các trẻ nhỏ, nơi các thanh thiếu niên niềm khát vọng và ước muốn nối gót Đức Giêsu Kitô trong mọi sự và một cách kề cận. Công trình giáo dục, mặc dầu liên quan tới cộng đoàn Kitô hữu xét như là cộng đoàn, cần phải đáp ứng cho từng người một: quả vậy, qua lời mời gọi của Ngài, Thiên Chúa đạt thấu lòng mỗi người, và Thần Khí, Đấng cư ngụ trong lòng mỗi môn đệ (x. 1Ga 3,24), được trao ban cho từng Kitô hữu với những đặc sủng dị biệt và với những biểu hiện riêng rẽ của mình. Như thế mỗi người cần được giúp đỡ để lãnh nhận ân huệ được giao phó cho mình một cách cá nhân, với tư cách một ngôi vị độc nhất và bất khả thay thế, và cần được giúp đỡ để đón nghe những lời mà Thần Khí Thiên Chúa ngỏ với mình.

Trong nhãn quan ấy, mối ưu tư về các ơn gọi hướng đến chức linh mục cũng có thể được diễn đạt bằng một sự đề xuất quyết liệt và thuyết phục trong việc linh hướng. Điều cần thiết là phải khám phá lại truyền thống cao cả về việc sát cánh thiêng liêng với từng người, là công việc đã luôn mang lại nhiều hoa trái quý giá trong đời sống Giáo Hội, tiến trình linh hướng này có thể được bổ khuyết, trong những trường hợp nhất định và với những điều kiện chính xác, bằng những hình thức phân tích hay những trợ lực tâm lý, chớ không được thay thế bởi chúng (111). Các trẻ nhỏ, các thanh thiếu niên phải được mời gọi khám phá và đánh giá ơn được ban là việc linh hướng, truy tầm ơn ấy, thực tập ơn ấy, yêu cầu ơn ấy, bằng một thái độ tha thiết và tin cậy, nơi các vị giáo dục mình trong đức tin. Về phía mình, các linh mục phải là những người tiên phong cống hiến thời giờ và năng lực cho công trình giáo dục và trợ giúp thiêng liêng cho từng cá nhân : ước chi các linh mục đừng bao giờ hối tiếc vì đã coi thường hoặc đã để vuột mất sang hàng thứ yếu nhiều điều khác, ngay cả những điều đẹp đẽ và hữu ích, nếu như đó là sự việc không thể tránh khỏi để vẫn tiếp tục tin vào thừa tác vụ của mình là cộng tác với Thần Khí hầu soi sáng và hướng dẫn những ai được mời gọi.

Cùng đích của việc giáo dục người Kitô hữu là đạt tới, dưới ảnh hưởng của Thần Khí, “sự trưởng thành viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13). Điều này được thể hiện khi, nhờ noi theo và chia sẻ đức ái của Chúa Kitô, người ta làm cho trọn vẹn cuộc sống mình trở nên việc phục vụ tình yêu (x. Ga 13,14-15), bằng cách tiến dâng lên Thiên Chúa sự thờ phượng thiêng liêng đẹp lòng Ngài (x. Rm 12,1) và bằng cách xả thân cho anh em. Công việc phục vụ tình yêu là hướng đi cơ bản của mọi ơn gọi, và điều ấy nghiệm đúng một cách hết sức đặc biệt cho ơn gọi linh mục vì, quả thực, linh mục được mời gọi lặp lại bằng cuộc sống phương cách triệt để nhất có thể để thực thi đức ái mục vụ của Chúa Giêsu, nghĩa là tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành “hiến mạng sống mình vì đoàn chiên” (Ga 10,11).

Chính vì thế, một nền phục vụ chính hiệu về ơn gọi sẽ không bao giờ nản chí trong việc giáo dục các trẻ nhỏ, các thanh thiếu niên về khát vọng dấn thân, về ý nghĩa của việc phục vụ nhưng không, về giá trị của hy sinh, về sự trao hiến chính mình một cách vô điều kiện. Phong trào tự nguyện, ngày càng thu hút đối với nhiều người trẻ, là một phong trào rất hữu ích, với điều kiện đó là tự nguyện do động lực Tin Mừng, giúp giáo dục những người trẻ biết phân định các nhu cầu, giúp họ mỗi ngày một sống tận tụy và trung thành, giúp họ sẵn sàng đón nhận khi cần kíp cuộc dấn thân dứt khoát trong đời tận hiến, lấy việc cầu nguyện làm lương thực. Tự nguyện như thế sẽ đỡ nâng cách chắc chắn hơn một cuộc đời dấn thân vô vị lợi và nhưng không, và sẽ làm cho người nào đeo đuổi cuộc đời ấy trở nên bén nhạy hơn đối với tiếng nói của Thiên Chúa là Đấng có thể mời gọi người ấy tiến đến chức linh mục. Ngược lại với người thanh niên giàu có, kẻ nhẹ dạ vẫn có thể đón nhận lời mời gọi tràn đầy tình yêu mà Đức Giêsu ngỏ với mình (x. Mc 10,21); người ấy sẽ có thể đón nhận lời mời gọi bởi vì của cải (biens) của người ấy đã hệ tại chỗ trao hiến chính mình cho ngươờ khác và ở chỗ “thiệt mất” chính mình.

Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với các ơn gọi linh mục.

41. Ơn gọi linh mục là một ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ ấy chắc chắn tạo thành một thiện ích lớn lao đối với người đầu tiên được trao gởi. Thế những đó cũng là một ân huệ dành cho toàn thể Giáo Hội, một thiện ích cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Bởi đó, Giáo Hội được mời gọi bảo tồn ân huệ ấy, quí chuộng và yêu mến ân huệ ấy : Giáo Hội có trách nhiệm đối với sự hình thành và đối với sự chính muồi của các ơn gọi linh mục. Do vậy, chủ thể chủ động, chiến hữu tiên phong của mục vụ ơn gọi chính là cộng đoàn Giáo Hội xét như là cộng đoàn, trong mọi hình thái biểu hiện khác biệt của cộng đoàn ấy: từ Giáo Hội phổ quát đến Giáo Hội địa phương và, một cách loại suy, từ Giáo Hội địa phương đến giáo xứ và đến mọi thành phần Dân Chúa.

Điều bức bách hơn bao giờ hết, nhất là ngày nay, là phải lan truyền và củng cố niềm xác tín rằng tất cả mọi thành phần trong Giáo Hội, không loại trừ một ai, đều nhận được ân sủng và đều mang lấy trách nhiệm chăm lo cho các ơn gọi. Công Đồng Vaticanô II đã tỏ ra minh bạch hết mực khi quả quyết rằng “bổn phận tạo thuận lợi cho sự gia tăng các ơn gọi linh mục là của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, cộng đoàn Kitô hữu được giao phó phải thanh thỏa bổn phận ấy trước tiên bằng một đời sống trọn vẹn là Kitô hữu” (112). Chỉ trên nền tảng niềm xác tín ấy mà mục vụ các ơn gọi mới có thể biểu lộ dung nhan thật sự Giáo Hội của mình và mới có thể phát huy một hoạt động hoà diệu, bằng cách cũng sử dụng những bộ phận đặc biệt và những phương thế thích ứng với sự hiệp thông và với tinh thần đồng trách nhiệm.

Trách nhiệm đầu tiên của nền mục vụ hướng về các ơn gọi linh mục, đó là trách nhiệm của giám mục (113), giám mục được mời gọi đích thân đảm nhận trách nhiệm ấy, ngay cả khi ngài có thể và phải cổ võ những nguồn cộng tác đa dạng. Giám mục là một người cha và là một người bạn đối với linh mục đoàn của mình, trách nhiệm của ngài là phải “duy trì cho liên tục” đặc sủng và thừa tác vụ linh mục bằng cách kết hiệp thêm những lực lượng mới nhờ việc đặt tay. Giám mục phải chăm lo sao cho chiều kích các ơn gọi luôn luôn hiện diện trong toàn bộ mục vụ bình thường, hơn nữa sao cho chiều kích ấy được hội nhập và được đồng hoá với mục vụ. Chính giám mục có trách nhiệm cổ võ và điều hợp các sáng kiến dị biệt ấy để mưu ích cho các ơn gọi (114).

Giám mục biết rằng, trên tất cả, ngài có thể cậy dựa vào sự cộng tác của linh mục đoàn. Tất cả các linh mục, cùng với ngài, đều liên đới với nhau, và đồng trách nhiệm với nhau trong việc mưu cầu và trong việc thăng tiến các ơn gọi linh mục. Thật vậy, như lời quả quyết của Công Đồng, “với tư cách là những nhà giáo dục đức tin, các linh mục có trách nhiệm chăm lo sao cho mỗi Kitô hữu, trong Chúa Thánh Thần, đạt tới sự triển nở ơn gọi của bản thân mình” (115). Và đó là “một bổn phận bắt nguồn từ chính sứ vụ linh mục, nhờ đó linh mục thông chia mối ưu tư của toàn thể Giáo Hội là làm sao, mãi mãi nơi trần thế này, tránh khỏi nạn thiếu hụt những người thợ trong đoàn dân Thiên Chúa” (116). Đời sống các linh mục, lòng tận tụy tuyệt đối của các ngài dành cho dân Thiên Chúa, việc các ngài làm chứng bằng cách phục vụ Chúa và Giáo Hội của Chúa trong tình yêu – đây là một chứng từ in hằn dấu thánh giá, thánh giá được chấp nhận trong hi vọng và trong niềm vui phục sinh – sự hoà hợp huynh đệ của các ngài và nhiệt tâm của các ngài trong việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới, đó là những yếu tố đệ nhất và có tính thuyết phục nhất cho thấy các ơn gọi quà thật phong nhiêu (117).

Một trách nhiệm rất đặc thù được giao phó cho gia đình Kitô giáo bởi vì, nhờ vào bí tích hôn nhân, gia đình thông phần một cách đặc biệt và độc đáo vào sứ vụ giáo dục của Giáo Hội là Mẹ và là Thầy. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã viết, “quả thực như một ‘Giáo Hội tại gia’ (Lumen gentium, GH, số 11), gia đình đã luôn cống hiến và còn tiếp tục công shiến những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành các ơn gọi. Bởi vì, ngày nay, hình ảnh gia đình Kitô giáo đang gặp hiểm hoạ, cần phải dành một tầm quan trọng lớn lao cho mục vụ gia đình. Bằng cách ấy, một khi quảng đại đón nhận ơn sự sống con người, chính các gia đình sẽ trở thành “như thể chủng viện đầu tiên” (Optatam totius, ĐT số 2), trong đó các trẻ em sẽ có thể đạt được, ngay từ buổi đầu, ý thức về đạo đức, về việc cầu nguyện và về tình yêu đối với Giáo Hội” (118). Trong dòng liên tục và hoà điệu với hoạt động của các cha mẹ và của gia đình, phải kể đến học đường, là bộ phận được mời gọi sống căn tính “cộng đoàn giáo dục” của mình với một phương án văn hoá có khả năng chiếu tỏa ánh sáng trên chiều kích của ơn gọi, xét như là giá trị tự nhiên và cơ bản của con người. Trong chiều hướng ấy, bằng một đức tin nhất thiết được điểm tô bằng tinh thần Kitô giáo (hoặc nhờ tôn giáo được hiện diện cách minh nhiên nơi học đường Nhà Nước, theo những sự sắp đặt của quốc gia, hoặc nhất là trong trường hợp học đường công giáo), học đường có thể ghi tạc “vào trong tâm trí các trẻ nhỏ và các thanh thiếu niên niềm khát vọng thi hành ý Thiên Chúa trong bậc sống thích hợp nhất cho từng người, mà không bao giờ loại trừ ơn gọi tiến đến thừa tác vụ linh mục” (119).

Các tín hữu giáo dân, cách riêng các giáo lý viên, những nhà giảng dạy, những nhà giáo dục, những linh động viên của mục vụ cho người trẻ, mỗi người tùy theo tài nguyên và khả năng riêng của mình, đóng một vai trò rất quan trọng trong mục vụ ơn gọi linh mục. Thực vậy, càng đào sâu ý nghĩa của ơn gọi và của sứ vụ mình trong Giáo Hội, họ càng có thể nhận ra giá trị và tính chất bất khả thay thế của ơn gọi và của sứ vụ linh mục.

Trong khuôn khổ các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ, những nhóm suy tư về ơn gọi cần phải được quí chuộng và khích lệ. Các thành viên trong những nhóm ấy cống hiến phần đóng góp bằng cầu nguyện và bằng những khổ đau của mình cho những ơn gọi linh mục và tu sĩ, đồng thời nâng đỡ các ơn gọi ấy về tinh thần cũng như vật chất.

Ở đây cũng cần phải nhắc tới nhiều nhóm, nhiều phong trào và hiệp hội tín hữu giáo dân mà Chúa Thánh Thần khởi động và làm tăng trưởng trong Giáo Hội, trong tương quan với sự kiện người Kitô hữu hiện diện một cách thừa sai hơn trong thế giới. Các tổ chức giáo dân ấy được nhìn nhận là một môi trường đặc biệt giàu ơn gọi tận hiến, như là những địa điểm thực sự thích ứng với việc đề xuất và tăng triển ơn gọi. Thật vậy, nhiều người trẻ, trong chính khuôn khổ ấy và nhờ vào những hiệp hội ấy, đã nghe được lời Chúa mời gọi đi theo Ngài trên con đường linh mục thừa tác và đáp trả với một lòng quảng đại đáng khích lệ (120). Bởi vậy, vần phải đề cao những tổ chức ấy để, trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội và nhờ các tổ chức ấy nên lớn mạnh, các tổ chức ấy đóng góp phần riêng của mình vào sự phát triển mục vụ các ơn gọi.

Những tiến kêu nài vang vọng từ nhiều phía, những thành phần khác nhau trong Giáo Hội dấn thân cho mục vụ ơn gọi, tất cả hoạt động cho ơn gọi ấy càng trở nên hữu hiệu nếu như càng làm cho cộng đoàn Giáo Hội, khởi từ giáo xứ, hiểu được rằng tuyệt đối không thể đem vấn đề ơn gọi linh mục ủy thác cho một số “chuyên gia để rồi trút bỏ trách nhiệm trên họ” (các linh mục nói chung và các linh mục phụ trách chủng viện nói riêng), nhưng là “một vấn đề sống còn nằm ngay giữa lòng Giáo Hội” (121), và rằng cần phải đem đặt vấn đề ấy vào trong tâm điểm tình yêu của mọi Kitô hữu đối với Giáo Hội.

còn tiếp

chú thích: Lưu ý: những số chú thích nhỏ hơn đã được ghi vào số báo kỳ trước

92) Diễn văn bế mạc Thượng Hội Đồng (27/10/1990), số 5: 1.c.

93) X. Propositio 6.

94) X. Propositio 13.

95) X. Propositio 4.

96) Công Đồng Vat. II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, Lumen Gentium, GH, số 9.

97) Như trên.

98) Thánh Cyprianô, De dominica Oratione, 23 : CCL 3/A, 105.

99) X. Công Đồng Vat. II, Sắc lệnh về tông đồ giáo dân, Apostolicam actuositatem, TĐ, số 3.

100) Propositio 5.

101) Kinh Truyền Tin (3/12/1989), số 2: Insegnamenti XII/2 (1989), tr.1417.

102) Sứ điệp ngày quốc tế thứ V cầu cho ơn gọi linh mục (19/4/1968) : Insegnamenti VI (1968), tr.134-135.

103) X. Propositio 5.

104) X. Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, Lumen Gentium, GH, số 10; sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 12.

105) X. Propositio 13.

106) Công Đồng Vat. II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et spes, MV, số 16.

107) Sách lễ Roma, Lời Nguyện đầu lễ trong thánh lễ cầu cho ơn thiên triệu linh mục.

108) X. Công Đồng Vat. II, Hiến Chế về Phụng Vụ, Sacrosanctum Concilium, PV, số 10.

109) Propositio 15.

110) Như trên.

111) X. CIC, Giáo Luật khoản 220 : không ai […] được phép xâm phạm quyền bảo tồn bí mật của bất cứ ai; x. thêm khoản 642.

112) Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục, LM, số 2.

113) X. Công Đồng Vat.II, Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các giám mục trong Giáo hội, Christus Dominus, GM, số 15.

114) X. Công Đồng Vat. II, Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục, Optatam totius, ĐT, số 2.

115) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 6.

116) Như trên, số 11.

117) X. Công Đồng Vat. II, Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục, Optatam totius, ĐT, số 2.

118) Propositio 14.

119) Propositio 15.

120) X. propositio 16.

121) Sứ Điệp Ngày Quốc Tế Thứ XXII cầu cho ơn gọi linh mục (13/4/1985), số 1 : AAS 77 (1985), tr. 982.

 

VỀ MỤC LỤC
THƯ CHỊ THÁNH TÊRÊXA VIẾT CHO NGƯỜI ANH EM LINH MỤC (4)
  

Năm thánh linh mục đang dần dần kết thúc để đẩy các linh mục của Chúa vững bước hành trình trên nẻo đường hy vọng. Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả, cách riêng là anh em linh mục, 6 lá thư của Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu viết cho Cha Roulland và 11 lá thư cho một thầy đại chủng sinh, người mà sau khi Chị Thánh qua đời mới được thụ phong linh mục: Cha Bellière.

Dưới đây xin giới thiệu thư thứ tư Chị Thánh gởi cha Rolland, do ông Nôbertô Thái Văn Hiến dịch.

Lm Trăng Thập Tự

 

Thư 221: Gửi Cha Roulland

Giêsu V 19 tháng 3 năm 1897

Thưa người Anh Em quí mến,

Mẹ nhân lành chúng con vừa trao cho con những lá thư của Cha dù đang là mùa Chay (thời gian này ở Cát Minh người ta không viết thư). Mẹ muốn hôm nay cho phép con trả lời thư Cha, bởi chúng con e là bức thư trong tháng Mười Một đã lạc đến chân trời góc bể nào rồi chăng[1]. Các thư Cha viết vào tháng Chín đã có một chuyến vượt đại dương đầy may mắn và đã mang niềm vui sướng đến cho mẹ và người chị em nhỏ của Cha trong ngày lễ các Thánh Nam Nữ; riêng thư ngày 20 tháng Giêng đến với chúng con dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse. Bởi vì Cha làm theo cách của con để viết cả trên những dòng kẻ, nên con không muốn để mất thói quen tốt lành ấy tuy nó làm cho việc viết lách của con càng trở nên tệ hại, khó đọc hơn trước nhiều… Chao ôi! cứ thế này thì biết đến khi nào chúng ta mới không phải cần đến giấy mực để chia sẻ những ý tưởng của chúng ta nữa đây? Cha đã bỏ qua chuyến đi tham quan xứ sở tuyệt vời nơi người ta có thể làm cho nhau hiểu mà chẳng cần phải viết ra và thậm chí cả không cần nói ra[2]; với cả tâm tình, con xin cảm ơn Chúa nhân lành đã để Cha ở lại giữa chiến trường để, vì Ngài, Cha mang về nhiều chiến thắng; những đau khổ của chúng ta đã cứu được nhiều linh hồn. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói: “Một hành vi yê mến nguyên tuyền [1vo] dù nhỏ nhất cũng hữu ích cho Hội Thánh hơn tất cả mọi công trình gộp lại[3].” Đã vậy thì biết bao gian khó và thử thách mà Cha phải chịu hẳn phải mang lại lợi ích cho Hội Thánh nhiều lắm, bởi chưng chỉ vì tình yêu duy nhất với Giêsu mà Cha đã chịu đựng tất cả môt cách hân hoan. Thật vậy, thưa người Anh Em kính mến, con không thể ái ngại gì về Cha cả, vì nơi Cha đang được thực hiện những lời này của Sách Gương Phước: “Khi các con nhận ra sự đau khổ là ngọt ngào và các con yêu mến nó vì tình yêu dành cho Chúa Giêsu, ấy là lúc các con tìm gặp được Thiên Đàng trên thế gian này[4].” Thiên Đàng ấy, đúng là của nhà truyền giáo và của nữ tu Cát Minh; niềm vui sướng mà người thế gian tìm kiếm trong những lạc thú chỉ là một bóng đen chập chờn, còn niềm hân hoan của chúng ta, được tìm kiếm và hưởng nếm trong công việc và đau khổ, đúng là một hạnh phúc ngọt ngào, được hưởng nếm trước niềm hạnh phúc Thiên Đàng.

Thư của Cha, đượm thắm niềm vui tươi thánh thiện, đã gây cho con nhiều hứng thú, con đã theo gương Cha và đã phải bật cười do người đầu bếp của Cha mà con cho là đang làm “thủng nồi trôi rế” của anh ta… tấm danh thiếp[5] của Cha cũng làm cho con thích thú, ngay cả việc nên quay mặt nào để đọc con cũng không biết nữa là, con chẳng khắc nào một đứa trẻ muốn đọc nhưng lại cứ cầm ngược cuốn sách.

Nhưng trở lại chuyện anh đầu bếp của Cha, Cha có tin là đôi khi trong Dòng Cát Minh, chúng con cũng có những chuyện phiêu lưu thú vị không?

Dòng Cát Minh, cũng như Tứ Xuyên, là một xứ sở lạ lùng trên thế giới, ở đó người ta đánh mất tất cả những tập quán sơ đẳng nhất, sau đây là một thí dụ. Một người tử tế vừa mới đây có làm quà cho chúng con một con tôm hùm nhỏ được buộc chặt trong một chiếc sọt. Dĩ nhiên là đã lâu lắm rồi điều tuyệt diệu ấy không được nhìn thấy trong tu viện, tuy nhiên Soeur đầu bếp hiền lành của chúng con cũng được nhắc nhở là phải đặt con vật bé nhỏ ấy vào nồi nước để nấu chín; chị ấy vừa làm vừa than thở vì bị buộc phải dùng “bạo lực” đối với một thụ tạo vô tội. Thụ tạo vô tội có vẻ như mê ngủ kia cứ [2ro] mặc cho người ta muốn làm gì tuỳ ý: nhưng vừa khi cảm thấy nóng, sự hiền lành của nó chuyển ngay thành cơn giận dữ và biết là mình vô tội, nên chẳng cần phải xin phép ai cả, con vật búng ngay ra giữa nhà bếp, bởi chị lý hình tử tế chưa kịp đậy nắp vung. Soeur bếp đáng thương liền trang bị ngay chiếc kẹp và chạy đuổi chú tôm hùm còn đang búng mình tuyệt vọng. Cuộc vật lộn kéo dài khá lâu, cuối cùng trận chiến cũng kết thúc, chị bếp, chiếc kẹp vẫn giữ trên tay, vừa khóc tức tửi vừa tìm đến Mẹ bề trên và tuyên bố với Mẹ là chú tôm hùm kia bị quỉ ám. Vẻ mặt của chị còn đầy thuyết phục hơn cả những lời của chị ấy nữa. (Con vật nhỏ bé đáng thương, vừa mới đó, hết sức hiền lành, hết sức vô tội, đùng một cái đã bị quỉ ám! Quả là chớ nên tin vào những lời ca tụng của loài thụ tạo!) Mẹ Đáng Kính không nín được cười khi nghe những tuyên bố của vị thẩm phán nghiêm khắc đòi hỏi công lý, liền đi ngay đến nhà bếp, nắm lấy chú tôm hùm, vốn không khấn giữ đức vâng lời, cho nên có vài phản ứng, rồi nhốt chú lại vào nhà tù và đi ra khỏi nhà bếp nhưng không quên đóng chặt cửa, nghĩa là đậy nắp vung lại. Buổi tối trong nhà chơi, cả cộng đoàn cười đến chảy nước mắt vì chú tôm hùm bị quỉ ám và sáng hôm sau mỗi người đều có thể nhâm nhi một miếng. Ngài muốn thết đãi chúng con cũng đã đạt được mục đích của mình, bởi vì chú tôm hùm ngon lành hay nói đúng hơn là câu chuyện về nó sẽ còn được dùng để làm cho chúng con có thêm các bữa tiệc vui khác nữa, không phải tại phòng ăn, mà là ở nhà chơi kia. Câu chuyện ngắn con kể có thể không làm Cha thích thú lắm, nhưng con có thể cam đoan với Cha là nếu chứng kiến cảnh đã xảy ra thì Cha sẽ không thể giữ mình nghiêm trang được… cuối cùng, thưa người Anh Em kính mến, nếu con có làm Cha phát chán, thì xin hãy tha thứ cho con, giờ thì con sẽ nói nghiêm túc hơn (trong một lá thư của con mà có thể là Cha đã không nhận được, con có cảm ơn Cha về cuốn sách Cuộc đời Cha Nempon). Giữa nhiều cuộc đời khác, mà con đã đọc, [2vo] cuộc đời Théophane Vénard[6] khiến con hứng thú và xúc động đến nỗi không biết nói sao hơn; qua cảm nghĩ ấy, con có biên soạn một vài đoản khúc riêng cho mình, nhưng con cũng gửi đến Cha[7], Mẹ nhân lành đã nói với con là Mẹ nghĩ rằng những câu thơ ấy sẽ làm hài lòng người anh em của con ở Tứ Xuyên. Đoạn áp chót cần phải có một vài giải thích: con thật hạnh phúc khi nói là con sẽ đi Đông Dương nếu Chúa nhân lành rủ lòng gọi con. Có lẽ việc đó khiến Cha phải ngạc nhiên, có phải là mơ mộng không khi một nữ tu Cát Minh nghĩ đến chuyện đi Đông Dương? Chẳng sao cả! đó không phải là mơ mộng, thậm chí con còn có thể đoan chắc với Cha là nếu Giêsu không sớm đến tìm con để về Cát Minh Thiên Đàng, thì sẽ có ngày con đến Hà Nội, bởi hiện nay đang có một nhà Cát Minh ở tại thành phố ấy, do chính nhà Cát Minh Sài Gòn vừa mới thành lập. Cha đã đến thăm Sài Gòn và Cha cũng biết là ở miền Bắc Việt Nam (Cochinchin) một dòng tu như chúng con không thể được nâng đỡ nếu không có các hạt nhân người Pháp; nhưng hỡi ôi! ơn gọi thật quá hiếm hoi và thường thì các bề trên không muốn để cho ra đi những nữ tu mà các ngài tin là có khả năng phục vụ cho chính cộng đoàn của mình. Vì thế mà, thuở còn xuân sắc, Mẹ nhân lành của chúng con đã bị ngăn cản bởi ý bề trên không cho đến Sài Gòn để đỡ đần cho nhà dòng ở đấy, không phải là con than phiền, mà con cảm ơn Chúa nhân lành đã linh hứng đúng đắn cho những đại diện của Ngài, nhưng con nhớ là những mong muốn của các mẹ đôi khi lại được thực hiện nơi những con cái[8] và con sẽ chẳng ngạc nhiên khi đi lệch hướng trong việc cầu nguyện và đau khổ như Mẹ đáng kính của chúng con đã tưng muốn làm như thế… tuy nhiên phải thú nhận là những tin tức mà người ta từ Đông Dương gửi về cho chúng con không làm chúng con an tâm: cuối năm ngoái, kẻ trộm đã vào tu viện đáng thương, đột nhập vào phòng mẹ bề trên mà mẹ không hay biết, sáng hôm sau mẹ bắt gặp chiếc thánh giá của mình nằm bên cạnh (vào ban đêm, tượng thánh giá của nữ tu Cát Minh luôn được đặt phía trên đầu nằm, liền bên gối kê), một chiêc tủ nhỏ đựng quần áo đã bị nạy tung và số tiền ít ỏi là tất cả vốn liếng vật chất của Cộng Đoàn đã không cánh mà bay. Các nhà Cát Minh ở Pháp, [3ro] xúc động vì sự mất mát của nhà Hà Nội đã gom góp giúp xây dựng một tường thành khá cao để ngăn không cho kẻ trộm vào tu viện.

Có thể Cha cũng muốn biết Mẹ Đấng Kính nghĩ thế nào về ước ao đi Đông Dương của con, phải không? Mẹ tin tưởng ơn gọi của con (bởi vì, thực ra, mỗi nữ tu nói riêng và toàn thể Cát Minh đều phải cảm thấy mình được gọi không phải để đi xa xứ) nhưng Mẹ không tin là ơn gọi của con có thể được thực hiện, bởi vì bao gươm cũng phải chắc chắn như lưỡi gươm và có thể (theo Mẹ nghĩ) bao gươm sẽ bị ném xuống biển trước khi đến được Đông Dương. Quả là không đơn giản để có được sự đồng bộ giữa một thân thể và một tâm hồn! người anh em thân lừa khốn khổ này, như Thánh Phanxicô Khó Khăn gọi, thường hay cản trở và ngăn không cho người Chị Em quí phái lao mình đến những nơi như ý … Cuối cùng, con không muốn nói nặng nói nhẹ gì nó cả, cho dù nhiều khiếm khuyết, nhưng nó vẫn còn tốt cho một vài việc vì làm cho bạn đồng hành của nó và cho cả chính nó đạt đến Thiên Đàng và cũng đáng quí mến lắm.

Con không hề bận lòng về tương lai, con chỉ tin chắc là Chúa nhân lành sẽ thực hiện ý định của Ngài, đó là hồng ân duy nhất con ao ước. Đừng có “múa rìu qua mắt thợ”[9]… Giêsu không cần ai để thực hiện công việc của Ngi và Nếu Ngài chấp nhận con, thì hẳn là do lòng nhân hậu thuần nhất, nhưng nói thật với Cha, thưa người Anh Em quí mến, con nghĩ đúng hơn là Giêsu sẽ đối xử với con như con bé ù lì; con không muốn như vậy đâu, bởi con sẽ rất hạnh phúc khi được làm việc và chịu đau khổ lâu dài vì Ngài, con cũng xin Ngài hãy bằng lòng ở lại trong con, nghĩa là đừng để ý đến bất cứ ước ao nào của con cả, hoặc yêu mến Ngài bằng cách chịu đau khổ, hoặc đến làm cho người vui lòng trên Thiên Đàng. Con hết sức hy vọng, thưa người Anh Em quí mến, một khi con rời bỏ chốn lưu đày, Cha sẽ không quên lời hứa cầu nguyện cho con, Cha đã luôn đón nhận những kêu cầu của con với lòng nhân hậu vô cùng lớn lao đến nỗi con vẫn còn dám xin thêm một lần nữa đấy. Con không muốn Cha cầu xin Chúa nhân lành giải cứu con khỏi lửa luyện tội: Mẹ Thánh Têrêxa đã nói với các con cái của mình [3vo] khi họ muốn cầu nguyện cho Mẹ: “Bất kể tôi có phải ở luyện ngục cho đến ngày tận thế đi chăng nữa, miễn là bằng lời cầu nguyện mà tôi cứu được một linh hồn[10].” Lời ấy vang vọng trong tâm hồn con. Con ước ao cứu các linh hồn và quên mình đi vì họ; con muốn cứu họ ngay cả sau khi con chết, con cũng sung sướng như Cha khi đọc lên những lời cầu nguyện ngắn và sẽ mãi đọc lên: “Lạy Thiên Chúa của con, xin giúp cho người chị em của con làm cho Chúa được yêu mến hơn nữa.” Nếu Giêsu nhậm lời Cha cầu xin, con sẽ hết lòng biết ơn Cha… Cha xin con, thưa người Anh Em kính mến, chọn một trong hai tên Maria hoặc Têrêxa cho một trong những người con gái mà Cha sẽ rửa tội[11]; bởi người Trung Quốc chỉ muốn có một thánh bảo trợ thay vì là hai, nên phải chọn cho họ vị nào quyền uy nhất, vậy là Đức Trinh Nữ thắng thế . Sau này, khi Cha đã rửa tội cho nhiều con cái, Cha sẽ làm vui lòng người chị em (Cát Minh như con đây) của Cha bằng cách gọi tên hai người chị em hèn mọn Céline và Têrêxa, đó là những tên mà chúng con được gọi trên thế gian này. Céline, lớn hơn con gần bốn tuổi, đã đến hội ngộ với con sau khi vuốt mắt cho bố nhân lành của chúng con; người Chị yêu dấu ấy không biết những quan hệ thân tình giữa con với Cha, chúng con chỉ gặp mặt nhau tại nhà chơi và nói chuyện về nhà truyền giáo của Mẹ Đáng Kính[12] (tên mà Cha dùng khi đến thăm nhà Cát Minh Lisieux), cuối cùng chị ấy đã nói cho con biết chị ấy ước ao, nhờ Cha, cho tên Céline và Têrêxa được hồi sinh ở Trung Quốc.

Xin hãy bỏ lỗi cho con, thưa người Anh Em kính mến, vì những đòi hỏi và những lời quá huyên thuyên và xin hãy đoái thương chúc lành cho

Ngườ Chị Em bất xứng của Cha

Têrêxa Hài Đồng Giêsu Thánh Nhan

 

[1] nguyên văn = đã đi thăm đáy Sông Xanh rồi (ND)

[2] Trong thư ngày 20 tháng Giêng năm 1897, Cha Roulland kể về chuyến đi truyền giáo của mình như sau: “Như Chị, em cũng sẽ viết cả lên trên những dòng gạch để khỏi hao giấy, và được phép của Mẹ nhân lành, em sẽ nói với chị đôi lời về Tứ Xuyên ở Viễn Đông. Khi đến biên giới của thành phố ấy, em đã hát kinh Te Deum, dâng lên Thiên Chúa tất cả những gì em là và những gì em có; em nhớ Mẹ Thánh Têrêxa có nói: hoặc chịu đau khổ hoặc chết; tại sao những lời ấy của Mẹ lại hiện lên trong tâm trí em, em đã có ngay một lời giải thích. Em sẽ nói chị biết và rồi chị cũng sẽ nghĩ như em thôi. Em đã dâng mình xong và phải đi ngủ: còn hai ngày nữa là chúng em sẽ xuống Kouy-Fou, nhà một thầy trợ sĩ. Sự khó chịu của em cứ tăng dần; người ta gọi thầy thuốc đông y đến, bởi người Âu ở đây chỉ có LM mà thôi; em nói là mình không thể tiếp tục cuộc hành trình được nữa; vậy là vĩnh biệt các bạn đồng hành. Mười ngày sau, cơn sốt bùng lên, sốt kịch liệt, một kiểu cống vật mà em phải cống nạp cho thời tiết. Suốt mười ngày em nói nhảm, nhưng có vẻ như tất cả những gì em nói ra chỉ là để làm người ta cười mà thôi. Ngài thầy thuốc thứ nhất bỏ rơi em; một người thứ hai, trước đây đã bị truy lùng vì đức tin, đến và kê cho em liều kí-nin tăng cường. Cơn sốt, vốn đã chuyển thành kinh niên nơi em, nếu tiếp diễn sẽ dễ dẫn đến tử vong, vậy mà lần này bắt đầu có vẻ đỡ hơn. Hôm nay em gần như khỏi hẳn. Sự việc là như thế đấy. Em kết luận: đó là nhờ những lời cầu nguyện của những ai quan tâm đến em và nhất là những lời cầu nguyện của chị mà em đã không phải hát bài Nunc Dimitis khi mới bước vào sứ vụ của mình. (…) Em đã nói với chị là đến Noel em sẽ dâng môt thánh lễ theo ý cầu nguyện của chị vậy mà lại phải liệt giường; em sẽ thực hiện lời hứa của mình sớm nhất nếu có thể.” (LC 173)

[3] Khúc Linh Ca, Giải thích khổ thơ XXIX.

[4] Sách Theo Gương Chúa Giêsu II, 12, 11; xem Carnet jaune 29,5.

[5] “Danh thiếp” bằng tiếng Trung Quốc.

[6] “Cuộc đời và Thư tín của J. Théophane Vénard. Việc đọc cuốn sách ấy bắt nguồn từ một trong “những tình bạn lớn” của Têrêxa. Từ đó mà có được một động viên thực sự đối với chị nữ tu Cát Minh đau yếu và đang chết dần; xem Carnet jaune 21/26.5.1

[7] Thơ Gửi Théophanie Vénard (PN 47. 02/02/1897).

[8] Xem Thủ bản C 9vo/10ro.

[9] Nguyên văn=bảo hoàng hơn cả đức vua (ND)

[10] Thánh Têrêxa Avila, ĐườngHoàn Thiện, ch. III.

[11] “Chị muốn một trong các con gái mà em sẽ rửa tội mang tên Marie (Ma ly ia) Têrêxa (Te le sa). Chị hãy chọn một trong hai tên ấy bởi người Trung Hoa chỉ mang một tên thôi.” (LC 173). Têrêxa đã viết ra mong muốn ấy của mình trong thư đề ngày 27 hoặc 28/7/1896, không còn được lưu giữ; xem TTTQ, tr. 874

[12] Xem Thư 189, ghi chú 4.

Tác giả:  Nobertô Thái Văn Hiến (dịch)

VỀ MỤC LỤC
Nguời nghèo và số sót

 

Nguồn: http://www.nuvuongcongly.net/cong-giao/hoat-dong-bac-ai/ngu%e1%bb%9di-ngheo-va-s%e1%bb%91-sot-l-m-an-re-d%e1%bb%97-xuan-qu%e1%ba%bf-o-p/

Nguời nghèo, đối tuợng phục vụ và đồng hành của Giáo hội!

Người nghèo và “số sót” là hai đề tài được nói đến cách đặc biệt trong sách ngôn sứ Xô-phô-ni-a. Họ là những người nghèo không có quyền uy, sống khiêm nhường và rất mực trung thành với Đức Chúa cũng như hết lòng tin tưởng vào Người. Họ cũng là “sô sót” trong đám những người còn tin vào Đức Chúa, sau khi bị lưu đầy ở Ba-bi-lon trở về Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng họ được cứu thoát.

“Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở

Những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa

Hãy tìm kiếm Người, hãy tìm sự công chính”. (Xp 2,3)

“Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi

Một dân nghèo hèn và bé nhỏ

Chúng sẽ tìm nơi trú ẩn nơi danh Đức Chúa”. (Xp 3,12)

Người nghèo thì ở đâu và bao giờ cũng có. Thường nghèo là khổ vì thiếu ăn thiếu mặc và thiếu đủ thứ. Nhưng Chúa Giê-su lại thương những người này. Người ra đời vì họ và nhất là cho họ. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là Chúa không thương những người khác, mà chỉ có ý nói Chúa ưu ái người nghèo, và coi họ là những người có phúc, như lời người dạy trong mối phúc thật thứ nhất :

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó

Vì Nước Trời là của họ”. (Mt 5,3)

“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó

Vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. (Lc 6,20b)

Chúa dạy như thế, nhưng thực ra nghèo vẫn thấy khổ và chẳng mấy ai thích nghèo, trừ những người thấm nhuần tinh thần của Chúa và hiểu được nghĩa lý của cái nghèo như thánh Phan-xi-cô thành Át-xi-di.

Một bên là những người có tâm hồn nghèo, còn một bên là những người nghèo thật sự, như hai câu Tin Mừng trích dẫn ở trên.. Có tâm hồn nghèo khó là giữ lòng cho cho khỏi dính bén vào của cải một cách quá đáng, và giải gỡ mình cho khỏi ham hố vật chất đến quên cả luân thường đạo lý. Còn nghèo khó là không có hay có ít của cải vật chất, phải sống trong tình trạng bấp bênh, không có bảo đảm cho tương lai mà không than van kêu trách, nhưng vẫn tin vào sự quan phòng của Chúa. Nghèo khó ở đây không phải là túng đói khổ cực, vì Chúa không muốn cho người ta rơi vào tình cảnh này nên mới dạy cầu nguyện hàng ngày trong Kinh Lạy Cha : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”, nghĩa là xin cho có những điều kiện tôi thiểu, để sống cho xứng với phẩm giá con người.

Trên  đây là nói về cái nghèo theo Tin Mừng, còn tiếp theo là cái nghèo trong Cựu Ước đã được nói lướt qua ở đầu bài và cũng được đề ra để đối chiếu với hoàn cảnh của nhiều anh chị em đồng đạo trong hiện tình Giáo hội ở Việt Nam.

Người nghèo được nói đến trong sách Xô-phô-ni-a là a-na-vim (anawim). A-na-vim là người nghèo không có nơi nương tựa nào khác ngoài Đức Chúa. Những người này nhìn trước nhìn sau, trông lên trông xuống không thấy ai cả. Cuối cùng, nhìn lên trời xanh thì chỉ thấy Đức Chúa bằng con mắt đức tin, rồi đặt hết lòng tin cậy nơi Người.

Ngôn sứ Ma-la-khi và nhất là ngôn sứ Xô-phô-ni-a nói đến loại người này trong hai sách của các ông. Hoàn cảnh xã hội và tôn giáo lúc bấy giờ khiến các ông không thể ngồi yên. Các ông đã lên tiếng cho thấy tình trạng giai cấp tư tế lãnh đạo dân và sự xôn xao bối rối của lòng dân. Người ta có thể thấy một sư tương đồng nào đó giữa hoàn cảnh thời ấy với hoàn cảnh hiện nay trong Giáo hội Việt Nam. Dân Híp-ri xưa tìm nơi nương tựa, nhưng không tìm được ở đâu cả, chỉ còn tìm đựợc ở nơi Đức Chúa.

Một số đông tín hữu Việt Nam trong hoàn cảnh này cũng muốn tìm nơi chắc chắn để nương tưa và tin tưởng, mà xem ra như không tìm thấy hay không còn mấy tin để tìm nữa. Vatican thì quá xa, lại xem ra không hiểu rõ tình hìnhViệt Nam, và được báo cáo theo một định hướng có chủ trương. Cơ quan truyền thông chính thức của công giáo là trang Web của Hội Đồng Giám mục thì không đem lại cho người đọc và nghe tính khách quan và khả tín.

Vì vậy, lúc này là lúc hơn khi nào hết, những người tin Chúa ở Viêt Nam và hải ngoại cần xích lại gần nhau hơn nữa, kết hợp chặt chẽ với nhau trong lời cầu nguyện, xin Chúa cho Toà Thánh hiểu rõ và đúng về tình hình Giáo hội tại Việt Nam, không để cho mình bị lèo lái, và xin cho các vị có trách nhiệm gìn giữ và nuôi dưỡng đời sống đức tin của tín hữu ở Việt Nam, đóng đúng vai trò của mình là những thày dạy đức tin và những người chỉ đường đúng lối.

Vậy mọi tín hữu trong nước cũng như ngoài nước, thiết tưởng nên cùng nhau tha thiết cầu xin Thiên Chúa là Đấng đã hứa :

“Kẻ gắn bó cùng Ta, sẽ được ơn giải thoát,

người nhận biết danh Ta, sẽ được sức phù trì ;

khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại,

lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên.

Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự

Cho sống lâu tuổi thọ dư đầy”. (Tv 90, 14-16)

Nay là  lúc ngặt nghèo. Mọi người tin Chúa, nào cùng nhìn lên rặng núi .

“Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi

Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao,

Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa

Là Đấng dựng nên cả đất trời”. (Tv 120,1)

L.m An-rê  Đỗ xuân Quế O.P


VỀ MỤC LỤC
ĐỐI THOẠI

 

Một sinh viên của tôi kể câu chuyện rất hài hước rằng trên chuyến xe đò về Daknông, mấy người bạn của anh học ngành kỹ thuật, không biết tiếng Anh, ngồi gần một hành khách ngoại quốc. Ông khách hỏi mấy câu gì đó các bạn ấy không hiểu, thế là một bạn đưa tay ra dấu như con dao cắt ngang cổ. Ông khách hết hồn, nghĩ là chàng trai doạ giết nên ông ngồi im ru. Các bạn bật cười vì các bạn chỉ muốn đùa rằng “Biết chết liền!”.

Rõ ràng việc đối thoại bất thành. Trong các lớp ngoại ngữ, một trong những hoạt động chính yếu là đối thoại. Khi làm ăn kinh doanh, người ta cũng cần đối thoại. Giữa xã hội, các các nhân và tổ chức cũng coi đối thoại như phương thế hữu hiệu để thành công.

Nhưng đối thoại là gì, đối thoại để làm gì và đối thoại như thế nào vẫn còn là vấn đề làm nhức óc nhiều người. Thậm chí những người hay dùng những từ đối thoại lại dường như không nắm được nội hàm của từ ngữ hoặc lạm dụng từ ngữ vì những lý do thuần cá nhân. Do đó, khi một người có trách nhiệm nói đến đối thoại thì lập tức làn sóng phản ứng tiêu cực lan nhanh.

Trong các lớp ngoại ngữ, đối thoại là để thực hành việc nói thứ tiếng mà học viên đang học. Người ta không chú ý đến chính kiến của người nói cho bằng khả năng sử dụng ngôn ngữ. Khi hai cá nhân hay hai tổ chức đối thoại với nhau, họ nhằm mục đích tìm hiểu nhau để nối kết sự giao hảo hoặc để mang lại lợi nhuận cho nhau.

Vậy đối thoại là gì? Từ điển tiếng Việt định nghĩa đối thoại là “nói chuyện qua lại trực tiếp giữa hai người hoặc nhiều người.” Nói chuyện với những mục đích rõ ràng khác nhau, nhưng đối thoại tựu trung là để hiểu nhau hơn.

Đối thoại cũng cần phải có những điều kiện cần thiết, mà điều kiện đầu tiên là phải cùng ngôn ngữ, ngay cả ngôn ngữ cử điệu cũng phải cùng hệ. Các bạn sinh viên ở trên và ông khách Tây đã không những không xích lại gần mà còn trở nên đối nghịch vì cố gắng đối thoại trên những căn bản vô cùng khác biệt, những khác biệt không thể “hoá giải” trên chuyến xe đò.

Điều kiện thứ hai để đối thoại thành công là cà hai bên phải có thiện chí. Làm gì có đối thoại giữa chiên và sói, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa những con người chỉ biết cầm nến hát kinh Hoà Bình và những con người cầm dùi cui đi với chó nghiệp vụ. Khi bên có thiện chí biết bên kia không có thiện chí mà vẫn kêu gọi đối thoại thì có nguy cơ đối thoại biến thành sự vâng phục bất chính.

Điều kiện thứ ba, điều quan trọng nhất, là “Phải coi luật luân lý phổ quát, được khắc ghi trong tâm hồn con người, là luật hữu hiệu và không thể xoá bỏ như một biểu hiện sống động của lương tri được chia sẻ của nhân loại, một “quy tắc thành văn” để chúng ta dựa vào đó mà xây dựng tương lai thế giới” (ĐGH Gioan Phaolô II, Diễn văn gửi Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc kỳ họp thứ 50). Sẽ là ảo tưởng khi muốn đối thoại với những con người chà đạp luật luân lý, luôn đặt nền tảng trên sự giả dối, kết án và bạo lực.

Xã hội ngày nay làm cho những tâm hồn thiện chí hoang mang, lắm khi thất vọng. Những bậc quyền cao chức trọng của các tôn giáo là những người hướng dẫn xã hội đi về Siêu Việt, thì chính họ phải hiểu những gì họ làm. Không thể nói chung chung. Nói chung chung để rồi kết án người khác không sống đúng tinh thần đối thoại là điều bất công.

Đối thoại là cần thiết. Ngôn ngữ là đặc trưng của loài người. Nhưng đối thoại với điều kiện nào và đối thoại với ai là điều đáng suy nghĩ. Đối thoại để nâng cao phẩm giá con người là điều phải thực hiện, còn đối thoại để làm vừa lòng giai cấp thống trị lại là cách thế hữu hiệu nhất để loại bỏ người nghèo và người đau khổ ra khỏi sứ mạng các tôn giáo.

Nhìn xuống dân nghèo, hỏi họ cần gì và xoa dịu nỗi đau của họ là cách đối thoại tuyệt vời nhất, và dĩ nhiên là khó khăn nhất. Còn gõ cửa quyền lực, nghe răn bảo và gật đầu cũng là đối thoại, nhưng sợ rằng danh thì đối thoại mà thực lại là vâng nghe những lời độc thoại mà thôi.

Gioan Lê Quang Vinh

 
VỀ MỤC LỤC
GIAÓ PHẬN HƯNG HÓA: LANG THÍP, GIAN NAN CON ĐƯỜNG ĐEM TIN MỪNG CỨU RỖI CÁC LINH HỒN
 

LTS. Vì lý do kỹ thuật, Đặc San GSVN không thể tải hình ảnh kèm theo, Quí vị có thể tham khảo thêm hình ảnh hiện trường tại:  http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=7626 Xin chân thành cám ơn.

"Nơi núi không cây, nơi sông không nước" sau mấy chục năm theo lời kêu gọi phá rừng.

Chúng tôi đến ga Bảo Hà trên tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai vào đêm, trời đổ một trận mưa nhẹ hạt làm không khí dễ chịu hơn đôi chút.

Đã khá nhiều lần qua lại nơi đây khi bằng ô tô, khi bằng tàu hỏa, nhưng chưa dừng lại nơi đây lần nào, trong tôi vẫn mang ấn tượng về một câu chuyện được đọc từ thời thơ bé, khi mà "cả nước ra trận" "ra ngõ gặp anh hùng".

Câu chuyện kể về người tuần đường trên tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai. Câu nói "Cọp Bảo Hà, ma Trái Hút" cũng từ câu chuyện này xâm nhập vào tôi. Chuyện kể rằng buổi sáng người ta đi tuần đường, thấy da và xác cọp bị tàu kẹt chết trên đường ray mới biết rằng hàng đêm cọp ra ngủ ở đường tàu hỏa nên tàu chạy qua cán phải. Câu chuyện đó nhằm nói lên rằng có những người tuần đường không kể gian nguy để cho đoàn tàu vận hành suôn sẻ phục vụ tiền tuyến giữa khu rừng thiêng nước độc này.

Không rõ câu chuyện đó có thật hay không, nhưng ít nhất là nói lên được điều này: Khi đó khu vực này vẫn là khu vực rừng thiêng nước độc và cây cối um tùm bí hiểm.

Chúng tôi xuống ga Bảo Hà, người chở xe máy đưa chúng tôi đến nhà thờ Lang Thíp cách ga độ chừng mươi cây số mà nhiều khi thót tim, xe nhảy chồm chồm trên bờ sông con đường nhỏ nhoi bám theo đường tàu hỏa. Con đường càng làm cho người đi cảm giác ghê người hơn khi bên cạnh là bờ sông dốc đứng sâu thăm thẳm vì nước cạn kiệt. Sau một trận mưa hồi đêm, nhưng dòng sông vẫn trơ cạn đáy nổi lên những bãi đá bên dòng nước đỏ đục ngầu.

Trong cả ngày rong ruổi sau đó, chúng tôi không tìm đâu ra một cánh rừng già, tất cả là đồi trọc và nắng khét, loang lổ vài ba đám nương người dân tộc đang gieo trồng như tấm áo vá trăm ngàn mảnh tuyệt nhiên không thấy bóng dáng một khu rừng nào còn sót lại để gọi là nguyên sinh.

Đúng là sau mấy chục năm nghe lời hô hào, kêu gọi của đảng và nhà nước, rằng "nghe rừng lắm đất lên đây với rừng" rằng "theo bước ta đất mừng reo xanh mượt. cất cao lên ánh lửa yêu đời, khúc ca mừng đất vỡ thênh thang"... và bao nhiêu ca từ hô hào “tiến sâu vào rừng” khác nhau.

Kết quả cho đến nay, hầu hết khu vực này rừng đã trôi vào dĩ vãng. Câu chuyện cọp, ma cũng từ đó trở vào truyền thuyết tự bao giờ.

Lang Thíp, nhọc nhằn họ đạo lẻ loi cô tịch

Tiếp chúng tôi tại ngôi nhà tranh mà có thể gọi là nhà xứ, một số giáo dân cho chúng tôi biết: Giáo họ có khoảng 400 người có đạo từ các vùng xa xôi đến đây sinh sống mấy chục năm nay. Ngoài ra còn có khoảng 500 giáo dân người dân tộc thiểu số trước đây đã rửa tội, nhưng sau một thời gian không có người chăm sóc, một số đã chuyển sang theo đạo Tin Lành. Số còn lại hầu như không có Thánh lễ đã lâu nên sự đạo mai một, kết hợp với sự khắc nghiệt của đời sống và canh chừng, kiểm soát của công an, chính quyền... nên nhiều nơi trở lại như vùng trắng.

Cách đây mấy tháng, linh mục Thái trở lại quản nhiệm nhà thờ Giáo họ này, lại bắt đầu công việc tái truyền giáo lại cho khu vực. Khi chúng tôi đến Lm Thái đang chuẩn bị cho chuyến hành trình vào bản người dân tộc, vài chiếc xe máy đã sẵn sàng, túi du lịch mang theo ảnh, tượng và một số dụng cụ đến thăm người thiểu số. Thấy chúng tôi ngỏ ý được đi theo, Linh mục Thái đồng ý và gọi thêm mấy chiếc xe máy nữa. Tất cả cùng nhau chuẩn bị lên bản.

Con đường lên bản của người H'Mông ở đây cũng nét chung như những con đường lên bản khác mà chúng tôi đã từng đi, người H'Mông luôn sống trên những đỉnh núi cao cheo leo và hiểm trở, đặc tính dân tộc của họ là như vậy, những con đường đến với họ đều vô cùng gian nan đòi hỏi sự gan dạ và kiên nhẫn.

Chúng tôi đi qua thôn Thíp Đạo để tới Liên Sơn, một khu vực có mấy gia đình công giáo nhưng nay một số đã bỏ sang Tin Lành. Năm 2003, linh mục Thái đã đến vùng này giúp đỡ họ nhiều trong cuộc sống, Ngài tổ chức cho họ cuộc sống văn minh hơn bắt đầu từ nguồn nước, trồng cây Quế. Trước hết, Ngài cho xây một chiếc bể nước khá lớn trên đỉnh đồi đủ dùng cho cả bản, hệ thống nước sau khi được lọc theo đường ống nước được lắp đặt chuyển về cho từng gia đình sinh hoạt thoải mái, phần còn lại để tưới ruộng, tưới cây. Đến nay, sau 7 năm hệ thống đó vẫn an toàn và sử dụng hiệu quả nhằm tránh cho đồng bào nơi đây những căn bệnh truyền nhiễm, bệnh tiêu hóa...

Đón chúng tôi tại nhà, Vàng Seo Dìn  cho biết: Nhờ những năm đó có hệ thống nước, đời sống đồng bào không kể lương giáo nơi đây đỡ khó khăn nhiều, nhiều gia đình đỡ ốm đau bệnh tật và chăm lo sản xuất hơn.

Nhưng những năm sau đó Ngài không có dịp trở lại nơi này, một số đã bỏ Công Giáo sang Tin Lành. Khi được hỏi vì sao lại thế, họ cho biết bởi vì theo Tin Lành đỡ phức tạp hơn cho họ. Một số còn được yêu cầu phải cúng ma và người ta còn tuyển thầy cúng tại chỗ cho bản.

Nhiều gia đình công giáo nhưng nay đã trở lại phong tục cúng của mình và được khuyến khích, việc học giáo lý, đọc kinh nguyện dần dần trở nên xa lạ. Hạt giống tin mừng đã gieo trồng nhưng không được chăm sóc, tưới tắm nên dần dần thui chột là vậy.

Cho đến bây giờ, khi Lm Thái trở lại bản, một số người lại muốn trở về theo Công giáo, nhưng cán bộ vào tận từng nhà bảo rằng nếu đã theo Tin Lành thì cứ theo tin lành, không được theo theo Công giáo nữa.

Nghe giáo dân nơi đây kể chuyện đã qua mà tôi cứ nghĩ như mình đang sống trong những năm 60 của thế kỷ trước. Những giáo dân H’Mông của Giáo họ Lang Thíp muốn đi lễ phải đi ra tàu xuôi khoảng 50-60 km về Giáo xứ An Thịnh, ở đó họ được tặng, cho hoặc mua sách vở, tượng ảnh... nhưng ra về đến ga tàu hoặc trên tàu lập tức bị lục túi lấy bằng hết. Có những gia đình được tặng sách vở, tượng ảnh... cất vào bồ thóc, cất trên gác bếp hoặc bất cứ chỗ nào cũng bị công an vào lục soát thu kỳ được thì thôi.

Việc tham dự Thánh lễ phải đi đường núi, vất vả hàng mấy chục km mới đến được nhà thờ giữa sự vây ráp quan tâm thường xuyên của các cán bộ, công an, nhiều người đã nản chí, cộng thêm tình cảnh không có các chủ chăn biết chăm lo cho họ, nên việc vào rồi ra là chuyện không mấy xa nhau.

Khi chúng tôi đến cả bản vắng tanh vì mùa gieo hạt nên phải đi làm. Vào một gia đình, một đoàn trẻ con bằng đầu nhau đứng núp sau khe cửa nhìn khách, tài sản cả gia đình không thấy gì ngoài mấy tải ngô đặt ở góc nhà, bếp lạnh tanh. Chủ nhà đang đeo tay lên ngực do bị rắn hổ cắn mấy hôm nay không đi làm được.

Thăm mấy gia đình khác trong bản cũng vậy, chúng tôi chỉ gặp gỡ được dăm ba người rồi chia tay.

Rời bản Liên Sơn, chúng tôi cùng nhau theo Linh mục Thái vào bản Hang Gấu, đây là một trong năm bản người dân tộc của xã Lang Thíp huyện Văn Yên. Con đường thật quả gian nan hơn chúng tôi tưởng, nhiều đoạn phải xuống dắt bộ vì chỉ sợ sểnh chân là xuống vực, mà vực ở đây lại không có nước, không có cây nên việc giữ được "linh hồn không ra khỏi xác" là điều khó khăn.

Giáo dân đi với chúng tôi cho biết: Những con đường này là những con đường "tự phát" của các hộ dân, của các bản mà hình thành nên được đâu hay đó, xã hội, chính quyền chưa can thiệp. Chúng tôi đùa nhau rằng thì ra đây là những con đường "không can thiệp nội bộ" của nhân dân.

Bên những khu đồi trọc là các đám người dân đang đổi công đi làm nương, khung cảnh nhìn thật vui mắt. Bên những ngọn đồi dốc đứng, người phụ nữ H'Mông cheo leo gieo hạt. Cuộc đời họ cũng cheo leo như cây ngô bên sườn dốc.

Bản Hang Gấu, một bản người H'Mông thuộc xã Lang Thíp mà khi đến đó, chắc chỉ có thể đi được xe máy khi trời nắng như hôm nay, trời mưa chỉ có nước đi bộ cũng không xong. Con đường xa xôi cheo leo đó, Linh mục Thái đã đi bao lần con đường này để đem Tin Mừng đến cho họ. "Không chỉ có bản này, những bản khác xa xôi hơn còn cheo leo hơn nữa nhưng Cha Thái vẫn không quản ngại đến với giáo dân, Hình như Cha có một tình yêu nào đó mãnh liệt với công việc truyền giáo. Các ông chưa biết chứ hồi trước khi cha xứ vào đây, thế nào cũng có dăm bảy người lạ mặt đi theo đằng sao thám thính và quan sát. Nhưng rồi họ thấy việc làm của Cha chẳng có gì sai trái và tình cảm giáo dân dành cho cha thế nào thì họ cũng thôi" một giáo dân đi theo chúng tôi nói.

Quả là con đường gieo neo và hiểm trở đầy nguy hiểm, nhưng con đường đó là con đường cách đây đã gần chục năm, Linh mục đã vượt qua để những người dân ở bản H'Mông này biết đến Chúa, và giờ đây khi trở lại những người dân lam lũ này cũng là mối quan tâm của linh mục Thái không chỉ ở truyền đạo, dạy giáo lý cho họ mà hướng dẫn họ cách ăn ở vệ sinh, cách sống và biết cái quyền của mình.

Cả bản nằm trong dạng xác xơ nghèo đói, những trẻ em lấm láp chơi thơ thẩn xung quanh những mái nhà che tạm hoặc bên những con suối cạn, nhiều đứa không có quần áo. Cái nghèo đói ở đây thì đã rõ, nhưng cái nghèo đói ở đây được chính quyền quan niệm rất "lạ". "Những hộ nào nghèo đến đâu thì nghèo, nhưng nếu theo đạo, thì không bao giờ được tiêu chuẩn nhận là hộ nghèo nên không được hỗ trợ theo chính sách nhà nước" - Một giáo dân nói với chúng tôi.

Cuộc sống nơi đây của bà con người dân tộc đang lầm lũi và vất vả, nhất là với giáo dân, cần lắm những bàn tay, những tấm lòng nhân ái đến với họ, nâng đỡ họ cả cuộc sống tinh thần và cật chất. Những sự chia sẻ đó chính là để thực hiện tám mối phúc trong đạo chúng ta: "Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc..."

Khi chúng tôi đến  Hang Gấu vợ chồng Giàng Seo Lú đang xẻ cột để dựng cái chòi máy xát gạo phục vụ bà con. Chở tôi về thăm ngôi nhà của anh, anh kể rằng ở đây, thỉnh thoảng cán bộ nó lại xuống hỏi về việc bà con theo đạo như thế nào, có cúng ông bà không... đời sống bà con còn vất vả lắm, nhà nào cũng đông con học hành khó khăn lắm vì nhà nào cũng nghèo.

Được tin linh mục đến thăm, bà con phấn khởi và cảm động, những người có thể thông tin được, họ gọi nhau về ngay dù cả bản đang mùa gieo hạt. Những hình ảnh nâng niu các em bé người dân tộc lem luốc của linh mục Thái, chúng tôi hiểu những tình cảm của vị linh mục này dành cho họ thật tâm và lớn lao biết nhường nào mới có thể vượt qua được những khó khăn lớn lao đó để đến với họ.

Cả xã Lang Thíp có gần 6.500 nhân khẩu, nay vẫn còn 40% được nhà nước xếp vào dạng nghèo đói, tất nhiên nếu con số giáo dân cũng được tính, hẳn là tỷ lệ sẽ cao hơn nhiều.

Nhìn đời sống đồng bào nơi đây, chúng tôi hiểu rằng để đến với họ không chỉ là lời nói suông, không chỉ là sự rao giảng mà điều cần nhất là lòng yêu thương thật sự của một tâm hồn dấn thân theo Đức Kitô. 

Vị linh mục say mê rao giảng Tin Mừng và bênh vực những người đau khổ

Tạm biệt hai bản người dân tộc, chúng tôi về theo con đường khác thì trời cũng đã đổ về chiều. Con đường dài hơn đưa chúng tôi ra đường cái trong cái nắng khá gay gắt. Để lại sau lưng những bản làng dân tộc và những day dứt về cuộc sống, niềm tin của họ.

Ngôi nhà nguyện Lang Thíp là một ngôi nhà nhỏ, khung cảnh xung quanh vừa được tôn tạo còn mới nguyên, chứng tỏ nơi này vốn là một nơi đèo heo hút gió ít người lui tới. Một cái lán lợp lá cọ, làm bằng tre không vách che đặt bên cạnh một ngôi nhà lợp tranh khác làm nơi cho linh mục ở. Ngôi nhà nguyện mới được tu sửa lại bằng cách nối thêm chút cánh gà để có chỗ che mưa tạt ngang. Nhưng khi mưa đổ xuống, hành lang vẫn nước nhỏ giọt tong tong.

Gặp chúng tôi ở nhà xứ là các giáo dân ở xứ cũ của Ngài, nơi Ngài đã từng phục vụ trước đây. Khi Ngài "được" chuyển lên Lang Thíp, trước cảnh tan hoang của nơi này với chỉ mấy trăm giáo dân trong giáo họ đã nhiều năm không có Thánh lễ, nhiều giáo dân từ xứ cũ đã đến đây giúp đỡ Giáo họ xây dựng cơ sở vật chất.

Ngôi nhà mới làm xong chỉ hết có 10 ngày, quả là một tiến độ kỷ lục trong điều kiện khó khăn về mọi mặt từ vật chất đến tinh thần khi mà chính quyền liên tục vào lập biên bản, đình chỉ xây dựng. Nhìn những đoàn người say mê xây dựng góp công tặng của cho nơi mới đến của Linh mục cũ của họ, chúng tôi thấy được tình cảm, sự mến yêu của giáo dân đối với Linh mục F.X Nguyễn Văn Thái thật sâu sắc và sống động. Có những giáo dân ngài đã coi sóc cách đây cả chục năm vẫn tìm đến nơi Ngài đang sống để chia sẻ với giáo dân ở đây.

Nói chuyện với chúng tôi, một giáo dân cho biết: "Cha Thái là người đã chăm sóc xứ đạo Nhân Nghĩa (Hóp) và đã ra đi từ lâu. Kể từ khi Ngài về đó, chúng tôi được thấy một vị mục tử nhân lành biết chăm lo cho chúng tôi hơn cả bản thân mình. Chính nhờ Cha, chúng tôi mới biết được mình có những quyền gì của con người, chính nhờ Cha, chúng tôi mới biết mình phải tự bảo vệ mình bằng luật pháp, lên án cái xấu, cái dở và nhân lên những sự tốt đẹp của cuộc sống đạo đức xã hội. Cha đã xa chúng tôi từ lâu, nhưng chúng tôi vẫn luôn thấy như Ngài luôn bên cạnh bênh vực và nâng đỡ chúng tôi.

Đặc biệt, từ nhỏ đến giờ chúng tôi đã gặp nhiều linh mục, nhưng có thể nói là chưa có linh mục nào say mê với việc truyền giáo, sự cứu rỗi các linh hồn và làm việc hiệu quả như Cha Thái. Chúng tôi đến đây với Cha khi có những khó khăn vì khi chúng tôi có khó khăn, bất cứ khi nào cha cũng ở bên chúng tôi để giúp đỡ và bênh vực".

Việc truyền giáo cho người dân tộc có những đặc thù mà không phải ai cũng có thể dễ dàng làm được. Trước hết đó là sự tận tâm và có sự yêu mến đặc biệt với những thân phận đói nghèo và hèn kém trong xã hội, những người dân tộc đơn sơ ấy vẫn phân biệt rất rõ những ai đã bênh vực và yêu mến họ thật sự.

Vừa qua, sau khi Ngài đổi nơi ở và phục vụ, có những bản làng đã được lãnh nhận ơn Thánh Tẩy bổng nhiên đùng đùng đua nhau đem Thánh Giá trả lại và nộp cho chính quyền. Khi giáo dân hỏi lại mới biết: "Công an, cán bộ vào nói với chúng tao rằng ông Thái đã bị đuổi đi nên không ai bênh vực cho chúng mày nữa đâu, nếu không bỏ đạo, trả Thánh Giá thì chúng mày sẽ không sống được, vì vậy chúng tao sợ lắm". Cả bản mấy chục người, giờ chỉ còn một người còn giữ đạo. Đó là điều day dứt và đau xót hiện lên rõ ràng trong con mắt giáo dân ở đây (Sự việc xẩy ra ở bản Khe Voi xã Đông an – huyện Văn Yên – tỉnh Yên Bái và ở Mỏ Vàng).

Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết Linh mục Thái cũng là linh mục đã luôn bênh vực cho giáo dân và những người nghèo khổ, bị chèn ép. Ngài luôn là nơi dựa vững chắc của giáo dân và những người bất hạnh trước những sự lộng hành, tham nhũng và oan khuất của họ. Đặc biệt những năm qua, khi các sự kiện liên quan đến giáo hội trong nước, ngài đã lên tiếng mạnh mẽ vạch trần sự dối trá, lừa bịp của hệ thống truyền thông.

Qua những sự kiện như Tòa Khâm sứ, Thái Hà, Đồng Chiêm, Tam Tòa... trong khi cả Giáo phận Hưng Hóa "im lặng đáng sợ", thì luôn luôn có những đoàn giáo dân nơi linh mục Thái coi sóc đến hiệp thông sau khi nhận được các thông tin qua mạng internet. Nhiều cuộc cầu nguyện đã liên tục được tổ chức cho các nơi bị bách hại. Phiên tòa xử 8 giáo dân Thái Hà, hàng chục giáo dân An Thịnh, Nhân Nghĩa đã xuống hiệp thông tận tòa án. Biến cố Đồng Chiêm xảy ra, những giáo dân nơi đây liên tục nhận được thông tin và đến tận nơi hiệp thông.

Khi những thông tin về khai thác bauxite Tây Nguyên được đưa lên mạng, một phong trào rầm rộ ký tên phản đối từ Nam ra Bắc... Tôi ngạc nhiên vì có một giáo xứ với  mấy hàng trăm chữ ký tận miền Yên Bái, hóa ra đó là các giáo xứ An Thịnh, Nhân Nghĩa, Đại Phác – Yên Phú do linh mục Thái coi sóc.

Những sự hiệp thông mạnh mẽ đó đã làm nức lòng giáo dân khắp nơi, họ được sống cuộc sống hiệp nhất của mình, được cất lên tiếng nói của mình với anh em nơi đau khổ theo đúng đường lối của Chúa: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".

Nhưng chính những sự nhiệt tâm của linh mục và Giáo dân nơi đó đã đem đến cho họ nhiều hệ lụy và khó khăn. Nhiều biện pháp, nhiều ngón đòn đã được sử dụng với họ. Trong đó có không ít những điều bất ngờ đến phi lý và khó hiểu. Cách đây 3 tháng Linh mục Fx. Nguyễn Văn Thái, nguyên linh mục  quản nhiệm Giáo xứ An Thịnh – Đại Phác – Yên Phú  với khoảng 13.000 giáo dân, được chuyển về "quản nhiệm nhà thờ Lang Thíp với quyền hạn theo giáo luật quy định cho một quản nhiệm nhà thờ (Xem GL. Điều 556-563). Điều này làm rất nhiều từ giáo dân cho đến linh mục ngỡ ngàng(?).

Đến nơi mới, Linh mục lại bắt tay xây dựng lại từ đầu một cơ sở tái truyền giáo ở đây.

Câu chuyện về vị linh mục này và tinh thần giáo dân nơi đây, chúng tôi sẽ nói đến kỹ hơn vào dịp khác.

Rời Lang Thíp trong một đêm mưa, chúng tôi thật xúc động khi những giáo dân, những người già cả đã vượt qua cả mấy cây số đường rừng bằng đi bộ để đến nhà thờ xem lễ dưới trời mưa và đường sá lầy lội và sự yêu mến chia sẻ sau Thánh lễ của những giáo dân này ngay tại "nhà xứ".

Tạm biệt Lang Thíp, những chiếc xe máy của giáo dân đưa chúng tôi chúng tôi lên ga Bảo Hà về xuôi trên con đường cheo leo bờ sông Hồng trơ cạn, với hi vọng có những bàn tay nhân ái dành cho bà con khốn khó nơi đây.

Trên chuyến tàu đêm về xuôi, chúng tôi không ai ngủ được với bao câu chuyện dở dang mà giáo dân đã kể lại trong nước mắt về những gian khó của họ.

Và cũng qua đó, chúng tôi hiểu rằng, giáo hội đang phải đối mặt với quá nhiều vấn nạn trong giai đoạn hiện nay.

Hà Nội, Ngày 3/6/2010

  • J.B Nguyễn Hữu Vinh

www.jbnguyenhuuvinh.wordpress.com

VỀ MỤC LỤC
NĂM THÁNH LINH MỤC 2010.

 

THÀNH QUẢ

Nhân dịp kỷ niệm 150 năm, ngày qua đời của thánh Gioan Maria Vianney, 2 tháng 8, 1859, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã công bố Năm Thánh Linh Mục, bắt đầu từ ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu 19 tháng 6, 2009 đến ngày 19 tháng 6, 2010. Thánh Gioan Maria Vianney, Cha Sở của Xứ Đạo Ars, Bổn Mạng Các Cha Sở, khi sống ở dưới trần gian Ngài đã nên gương sáng ngời của một vị mục tử tốt lành dám hy sinh vì đoàn chiên của Chúa. Đời sống gương mẫu của ngài có khả năng làm đổi thay nhiều tâm hồn về với Chúa. Giáo Hội đã cử hành Năm Thánh Linh Mục, để trong thời gian này, qua các buổi học hỏi, suy niệm, các việc lành thánh và những phản ảnh đời sống, giúp các linh mục học theo gương mẫu của Cha Thánh mà kiên trì trong việc phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội.

Ý Nghĩa Năm Thánh  

Chỉ còn ít ngày nữa, chúng ta sẽ kết thúc Năm Thánh Linh Mục. Ngày tháng trôi qua thật nhanh, mới ngày nào Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI công bố khởi đầu Năm Thánh với rất nhiều mong ước và ý hướng thánh thiện. Mọi người đều hân hoan đón chào Năm Thánh với nhiều chuẩn bị và định hướng thực hành. Hình ảnh cha thánh Gioan Maria Vianney và lời Kinh Năm Thánh cầu cho các linh mục được in ra đủ mọi loại hạng và kích thước. Các trang trí và biểu ngữ được trương lên đánh dấu ngày khai mạc. Ai cũng mong ước có sự gì thay đổi nơi mỗi con người linh mục. Thay đổi để trở nên tốt hơn và nên giống Thánh Quan Thầy của mình.

Gần một năm trôi qua, nếu chúng ta có dịp lên các mạng lưới Công Giáo, chúng ta đã thấy có rất nhiều bài suy niệm về ơn gọi, chức linh mục và đời sống của linh mục. Những bài viết như: Nào là Linh mục là ai? Những mâu thuẫn của đời sống linh mục. Linh mục với cái nhìn đổi mới. Linh mục và tỉnh thức. Linh mục và luật độc thân. Tại sao gọi là chức linh mục? Linh mục nâng tâm hồn lên với Chúa. Linh mục đời đời. Linh mục và của lễ. Linh mục nên thánh nhờ cầu nguyện và hy sinh. Linh mục hãy nên thánh.v.v. Có nhiều bài viết về những mẫu gương tốt lành của linh mục sống chứng nhân can trường. Bài viết nào về ơn gọi linh mục cũng có nhiều ý nghĩa và rất thánh thiện. Ơn gọi linh mục thật là thánh thiêng. Lý tưởng của đời linh mục thật cao vời. Cuộc sống linh mục thật tốt đẹp. Một lần xin vâng, cố gắng sống cho trọn lời thề. Xét về phương diện linh thánh thần học, chức vị linh mục thật cao qúi vì được chia sẻ chức vị tư tế của Chúa Giêsu Linh Mục Thượng Phẩm.

Trong phần kế tiếp con muốn trình bày một vài nét đặc trưng về đời sống gương mẫu của Cha Vianney. Mở tấm gương nhân đức của thánh Quan Thầy Vianney để các linh mục cùng soi chung và phản ảnh đời sống chứng nhân.

Cha Vianney, Mẫu Gương

Cho tới hôm nay, con vẫn cứ luẩn quẩn suy nghĩ tại sao Đức Thánh Cha lại chọn cha Gioan Maria Vianney làm quan thầy của các cha sở và lại chọn Ngài là mẫu mực cho các linh mục trong Năm Thánh này. Mới đầu, con cũng không chú ý lắm về Năm Thánh Linh Mục. Con đang phục vụ tại một Giáo Xứ đa văn hóa, dưới sự coi sóc của các cha Dòng. Xem ra các ngài cũng không để ý nhiều tới những biến cố do Đức Thánh Cha khơi động. Thế rồi ngày qua tháng lại, trong nhà thờ nơi con phục vụ, cũng chỉ treo lên một cái phướng về Năm Linh Mục (Year of Priests). Con cố tìm học hỏi về đời sống của cha thánh Vianney đã chết cách đây đã 150 năm xem có gì đặc biệt.

Trước đó, con cũng đã đọc qua chút ít về những sinh hoạt mục vụ thường xuyên của Ngài, nhưng con chỉ nghĩ rằng đây là một vài câu truyện và tấm gương soi chung. Càng đọc về cuộc đời của Thánh Gioan Vianney, con càng cảm thấy sao mà xa lạ quá. Cuộc đời linh mục của cha Vianney mãi trên kia, thuộc thế giới khác và đã như là đi vào huyền sử. Con chỉ biết ngước mắt trông lên mà thán phục. Còn việc bắt chước gương mẫu đời sống của Ngài thì xem ra không thể. Thánh Gioan Vianney có nhiều khác biệt trong đời sống linh mục và cách thế phục vụ lắm. Con cứ đi từ ngạc nhiên này tới sự khâm phục khác. Và con tự an ủi mình rằng cha Thánh sống vào thế kỷ trước, khác xa bây giờ. Vả lại Ngài đã có niềm tin sắt son và lãnh nhận nhiều ơn Chúa. Ngài sống cao siêu quá, thánh thiện qúa, khiêm nhường qúa và con nghĩ ai mà theo cho được. Con khó có thể theo bước chân của Ngài, vì con nặng nợ trần gian quá.

Ơn Gọi Phục Vụ

Cha Vianney không được học hỏi nhiều và không thông minh lắm. Khi Đức Giám Mục hỏi các giáo sư nghĩ gì về Thầy Gioan Vianney. Các Giáo Sư trả lời: Về phần đạo đức sốt sáng, cách ăn ở khiêm nhường cùng các nhân đức khác thì Gioan hơn hẳn anh em bạn học, chỉ mỗi tội là học quá kém thôi. Nghe thế, cha Chính Địa Phận trả lời rằng cha bằng lòng cho thầy Gioan chịu chức, chức 5, rồi chức 6 và chức linh mục. Nhưng Gioan đã phải bước qua rất nhiều thử thách, vất vả, khó nhọc cùng chịu nhiều đau khổ cay đắng suốt hai mươi năm trọn cho đến ngày tiến chức linh mục vào ngày 13 tháng 8, 1815.

Sau khi chịu chức linh mục, cha được sai về làm phó cho cha Bailey, xứ Ecully. Cha Vianney vui mừng quá đỗi được về giúp cha Bailey như là cha linh hướng và thầy dạy. Đức Giám Mục đòi cha Vianney phải học thêm về luân lý thần học một thời gian nữa mới được giải tội. Điều này làm cha Vianney tủi hổ vô cùng. Nhưng nhờ sự khiêm nhượng và phó thác, cha Vianney đã tiến triển trên đường nhân đức. Cha Bailey hết lòng nâng đỡ và khuyến khích cha Vianney trong mọi cách sống của đời dâng hiến. Sau khi cha Bailey qua đời, cha Vianney được bổ nhiệm làm cha xứ. Ngài bắt đầu đời sứ vụ qua việc ăn chay hãm mình để đền tội thay cho giáo dân. Cha không những coi sóc giáo dân mà còn phải giải tội và làm các phép cho giáo dân các xứ bên cạnh.

Bài Sai Xứ Đạo

Ngày 20 tháng 2, 1818, cha Gioan đi nhận xứ Ars, trên đường về nhận xứ, cha qùy gối xuống bên đường lộ, để cầu nguyện cho đàn chiên mà cha sắp chăn dắt. Đây là một xứ miền quê, người ta sống đủ ăn đủ mặc và không túng thiếu. Đời sống cũng tốt nhưng vì qua cuộc cách mạng cấm đạo, không có linh mục coi sóc nên lòng người ra mê muội, biếng nhác đọc kinh dự lễ và không hiểu biết giáo lý. Khi cha mới về, chỉ năm ba người đàn bà dự lễ. Chúa nhật có một số đi dự lễ cho có lệ và uể oải lắm. Từng bước từng bước qua sự an chay hãm mình và cầu nguyện, cha đã cải đổi tâm hồn họ.

Mỗi anh em linh mục cũng được Đức Giám Mục Địa phận hay Bề Trên sai đến một địa chỉ của Họ Đạo hay Xứ Đạo để phục vụ. Có những nơi, các cơ sở đã được chuẩn bị và có đầy đủ phương tiện để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Có những nơi như vùng Truyền Giáo hay vùng kinh tế mới, các linh mục phải bắt tay vào việc xây dựng cơ sở từ số không. Cũng có những Xứ Đạo đã đi vào nề nếp và giữ đạo tốt lành sầm uất. Có những Họ Đạo lẫn lộn lương giáo và thuộc vùng xa vùng sâu nghèo khổ. Mỗi linh mục lãnh nhận sứ mệnh và có nhiệm vụ sống chết với đoàn chiên của mình. Không vì hoàn cảnh nghèo khổ mà chúng ta mất đi lòng nhiệt thành trong đời sứ vụ.

Nơi Phục Vụ

Có nhiều cách thế cha Gioan đã dùng để khuyên nhủ mọi người bỏ đàng tội mà sống đạo tốt. Cha đã cầu xin Chúa giúp và vâng theo thánh ý Chúa. Khi nhận xứ, cha chẳng để ý đến nhà xứ và việc tu sửa vì cha ở nhà thờ hầu như cả ngày. Không mấy lúc cha ở trong phòng hay trong nhà xứ. Từ một hai giờ sáng cho đến chín mười giờ tối, trừ lúc ban chiều cha đi thăm viếng con chiên và đưa của ăn đàng cho kẻ liệt. Ai có việc tìm cha, chỉ cần ra nhà thờ. Ở đó, cha quì thẳng trước Nhà Tạm, không tựa vào đâu, mắt nhìn chăm chú vào nhà tạm. Có lúc cha đọc Kinh Nhật Tụng, có lúc cha khóc lóc kêu xin Chúa thương đến giáo dân của mình.

Chúng con cũng là linh mục. Chúng con cũng được trao ban đầy đủ tác vụ của một linh mục nhưng chúng con đã sống thế nào? Điều trước nhất khi mới về nhà xứ là chúng con phải tìm một cơ ngơi thuận tiện và thoải mái. Chúng con lo xây sửa mọi nơi ở cho thật xứng đáng. Chúng con lý luận rằng phải có đầy đủ tiện nghi phòng ốc, nhà cửa rồi mới có thể phục vụ được chứ. Nhà cha xứ mà. Nhà xứ là nơi chúng con sinh họat hằng ngày, là nơi gặp gỡ người ta và là nơi sinh sống và làm việc. Còn nhà thờ là nơi để dâng lễ và để giáo dân cầu kinh mà thôi. Thật thế, đâu có mấy lúc chúng con ghé qua nhà thờ gặp Chúa nơi Nhà Tạm, quá ít và rất họa hiếm. Nhà tạm nơi Chúa ngự bên đèn chầu bằng dầu, đôi nơi còn dùng đèn điện, chẳng bao giờ phải thay hay phải lau chùi. Chúng con gần như khách lạ trước Nhà Tạm Chúa. Con tự hỏi: Làm sao cha Gioan có thể ở nhà thờ suốt ngày được? Chỉ có thể, khi Ngài tin thật Chúa Giêsu đang hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Ngài qùi đó mà không chán và không mệt mỏi. Vì Ngài đang tâm sự với Đấng hiện hữu thật sự mà Ngài tôn thờ.

Giảng Dạy

Cha Gioan đến nhận xứ Ars. Làng Ars không phải là đất của chữ nghĩa. Không có thầy dạy, không có trường học và dân chúng nơi đây chỉ chú trọng đến công ăn việc làm. Cha Gioan lập trường học và chịu khó giảng giải mỗi ngày. Ngài nói: Tôi lấy sự giảng giải là cần thiết và nặng nề hơn các việc khác. Tôi không lấy sự hãm mình, ăn chay và đánh tội mỗi ngày, ngồi tòa giải tội lâu giờ, thao thức suốt đêm mà khổ sở cho bằng dọn bài giảng. Cha dọn bài rất cẩn thận và không tiếc thời giờ. Cha đọc sách, nghiên cứu và viết bài giảng. Mỗi ngày sau các giờ cầu nguyện, cha dọn bài giảng từ tám giờ tối cho đến gần nửa đêm. Suốt trong vòng mười năm đầu, cha phải học thuộc hoặc nhớ rõ chi tiết. Cha còn để lại các bản nháp trong phòng cha, ở Xứ Ars.

Là linh mục, chúng con được học hỏi và có nhiều kiến thức về Kinh Thánh, Triết Học, Thần Học và về Giáo Hội đầy đủ. Chúng con đã làm gì với vốn liếng ấy. Chúng con có nhiều sách để cất giữ và xếp trên kệ sách cho đẹp mắt. Rồi chúng con thu nhặt nhiều sách đẹp, hay và giá trị nhưng lại ít khi mở ra để học hỏi và nghiên cứu. Chúng con ngại ngùng cầm cây bút để viết và sọan bài giảng. Chúng con còn quá nhiều công việc phải lo, nhiều vấn đề phải giải quyết và phải gặp gỡ đối diện nhiều người hàng ngày. Chúng con không có nhiều giờ để dọn bài giảng. Một vài ý tưởng lóe lên trong đầu hay một vài ý tưởng ghi xuống cũng đủ để chúng con chia sẻ một bài giảng huyên thuyên từ 10 tới 15 phút. Chúng con không biết rằng giáo dân đang phải ngồi chịu đựng thánh giá và sức nặng từ môi miệng chúng con phát ra. Vì người ta gọi đó là Bài Giảng mà. Phải nghe thôi!

Ăn Chay và Đánh Tội

Phần cha Gioan, cha ăn chay, hãm mình, đánh tội, trước hết là vì cha muốn bắt xác thịt phải vâng phục linh hồn và để đền tội. Cha muốn làm cho thân xác yếu nhược để nó không chống cưỡng với linh hồn được. Nghe nói việc ăn chay, đánh tội sao mà xa lạ quá. Giáo Hội chỉ còn khuyên ăn chay kiêng thịt một năm có hai ngày Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, kiêng thịt các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay. Có thế thôi, cũng chưa thực hành được, nói chi đến ăn chay đánh tội mỗi ngày. Cha Gioan mỗi mgày chỉ đứng ăn vài củ khoai và uống vài ly nước lã. Khi không có khoai, cha ăn bánh tráng hay uống bát nước hồ. Thế là xong bữa. Khi tuổi già sức yếu, cha uống thêm một chén cà phê hay một ly sữa.  Thỉnh thoảng  cha ăn một chút bánh miến và hai ba miếng thịt để vâng lời bề trên buộc giảm bớt việc ăn chay.

Còn chúng con, ngày hai ba bữa được dọn sẵn sàng. Ăn sáng, ăn trưa, ăn tối và còn ra vào không kể. Chúng con nói rằng ăn để có sức mà phục vụ nhà Chúa. Linh mục cần có sức khỏe thì mới phục vụ tốt được. Điều này rất đúng. Nhiều xứ còn có các người giúp bếp, nấu nướng những món ngon vừa miệng, đâu thể ăn chay kiểu của cha Gioan được. Đánh tội thì có vẻ xa xưa rồi, ngày nay đâu có ai thực hành đánh tội nữa. Ngày nay chúng con lại còn dung dưỡng thân xác nhiều hơn, nào là tập thể dục mỗi ngày, có máy đẩy, máy kéo, máy chạy và thuốc bỏ đủ loại… đủ mọi phương tiện để bồi dưỡng sức khỏe.

Quyền Giải Tội

Cha Gioan ngồi tòa giải tội từ 15 tới 18 tiếng mỗi ngày. Mỗi đêm khi chuông đồng hồ gõ 12 tiếng là Ngài dậy, rồi ra nhà thờ cầu nguyện và giải tội. Ngài thực hành không chỉ trong vòng thời gian ngắn nhưng là trong khoảng 40 năm là cha Xứ Ars. Ngày này qua ngày khác, Ngài đã làm việc liên tục và không ngừng nghỉ. Nhiều khi đi không vững và phải vịn vách tường mà ra nhà thờ. Ngài đã bị kiệt quệ trong thân xác nhưng tinh thần rất minh mẫn. Chúa thêm sức cho Ngài qua việc cử hành Thánh Lễ và Rước Mình Máu Chúa và cầu nguyện. Hàng ngày cả mấy trăm người từ khắp nơi đến xin xưng tội. Danh tiếng sự thánh thiện của Ngài đã lôi kéo rất nhiều người trở lại và họ đã được đổi đời qua bí Tích Hòa Giải. Cha Vianney còn được thị kiến những tâm hồn khô khan cần được nâng đỡ và giúp họ hòa giải với Chúa và tha nhân.

Phần chúng con là linh mục, một tuần chúng con chỉ ngồi tòa giải tội có một hay hai giờ là nhiều lắm rồi. Đôi khi chúng con còn ngại ngùng và thoái thác. Nhiều khi chúng con còn từ chối người muốn xin xưng tội. Nói rằng phải có nơi và có giờ đã được ấn định, hẹn lúc khác. Chúng con làm khó làm dễ một số người muốn đến với tòa cáo giải. Và sự hòa giải gần như trở thành máy móc, chúng con không có giờ cầu nguyện để nhận được ơn hướng dẫn và thúc giục hối nhân trở về cùng Chúa. Cha Gioan ngồi mười mấy tiếng đồng hồ để nghe các hối nhân xưng thú tội lỗi. Ngài phải có sức chịu đựng phi thường và lòng tin yêu mãnh liệt để cứu các linh hồn.

Đối diện khó khăn.

Những kẻ hiền lành nhân đức luôn phải chịu sự khốn khổ đời này. Tục ngữ dạy: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức.” Cha Gioan đi giảng và giải tội nơi nhiều Xứ Đạo khác. Các giáo dân rất qúy mến và khen cha nhân đức. Trong khi thấy con chiên của mình đua nhau đến xứ Ars xưng tội với cha Vianney, thì các linh mục ở những Xứ gần cận lại đem lòng ghen ghét và trách cứ cha Vianney. Có linh mục nói rằng: Cha Vianney dốt lắm. Tiếng La tinh thì không thông biết nhiều, phải học đi học lại thần học mà không hiểu. Có cha khác lại nói: Cha Vianney tính tình lạ lùng, khác thường và không theo cách ăn ở của linh mục. Cha hay ăn chay hãm mình và mặc quần áo rách rưới, lấy cái vẻ bề ngoài, làm cho người ta kính trọng và khen ngợi. Cha làm mồi và bỏ bùa để người ta đến xưng tội với mình. Hầu hết các linh mục mỉa mai và chê trách cha Vianney. Rất nhiều linh mục vì ghen tương, thay vì giảng đức bác ái yêu thương, trên tòa giảng một phần chê trách cha Vianney. Cha rất khiêm nhượng và trả lời: Các cha chưa biết tôi rõ ràng, chớ nếu biết tỏ tường, các ngài còn chê trách và cáo tội nhiều điều khác nữa.

Mỗi vị thánh có một cách sống đức tin tuyệt đối. Các ngài đạt tới cùng tận của lòng mong ước nên thánh. Các ngài dám hy sinh và xả thân vì lý tưởng để đạt đến cùng đích. Còn chúng con linh mục, chúng con cũng không tránh khỏi những sự dèm pha, ghen tương và xét xử thiên kiến với nhau và những người đạo đức khác. Khi làm được điều gì, chúng con mong muốn được người ta khen thưởng. Chúng con vui với những thành công trước mặt như xây nhà thờ, sửa nhà xứ, dựng tượng đài và mở mang khu vực… Chúng con muốn đầu tư vào những công việc bên ngòai nhiều hơn là những đổi thay bên trong tâm hồn. Chúng con đua nhau để làm đẹp vẻ bề ngoài và chuộng hình thức. Vì những biểu hiện bên ngoài thì dễ bắt mắt người ta hơn và dễ dàng thực hiện hơn.

Chúng ta thường nhầm lẫn giữa phương tiện và mục đích. Và một khi chúng ta đánh mất cái trọng tâm thì sẽ bám vào cái bề ngoài là cơ sở vật chất để bù đắp. Những cơ sở hoành tráng bên ngoài trở thành chiếc phao che đậy cái trống rỗng bên trong. Quan niệm sống và hoàn cảnh sống sẽ tạo nên những ý thức hệ. Nếu các linh mục là những mục tử không dẫn dắt giáo dân sống đời cầu nguyện và nội tâm thực sự, họ cũng sẽ dễ dàng hướng ngoại để nhìn về những nhu cầu vật chất hơn là tinh thần. Truyện kể: Một linh mục về quê dâng lễ tạ ơn, nhà thờ đã lâu không có người coi sóc và tình trạng  xuống cấp nhiều. Một số vị đi theo và giới thiệu hết nhu cầu nâng cấp cầu, tượng đài, nhà xứ, đến tu sửa cung thánh, ghế quỳ, bàn thờ và khu vực chung quanh. Nhưng rồi chẳng thấy cha nói gì. Trước khi ra về, họ nhắc lại: “Vậy cha không cho chúng con gì à”. Cha cười, trả lời: “Tôi cho lễ rồi mà”. Họ nói: “Tưởng cha cho gì, chứ cho lễ thì chúng con không cần”.

Sự Phó Thác.

Đức tin là nền tảng và là cội nguồn của các nhân đức khác. Cha Vianney giảng: Ta có phúc dường bao khi xem thấy Chúa Giêsu ngự trong Phép Thánh Thể. Ai không có đức tin, người đó mù tối trong linh hồn còn hơn những người mù thân xác nữa. Cha Vianney học hành chậm chạp và trí khôn tối tăm nhưng nhờ cha mạnh tin và lấy đức tin làm mẫu mực cho các việc mình làm nên cha trở thành người khôn ngoan, thông biết và cao siêu. Cha nói: Ai tâm sự nói năng với Chúa như khi ta nói truyện với nhau, đó là người mạnh tin. Lòng trông cậy của cha Vianney còn mãnh liệt hơn nữa. Ngài nói rằng: “Người nào yêu chuộng sự gì thì lòng họ luôn hướng đến sự ấy.” Nếu như ta năng suy gẫm và ước ao phúc thiên đàng ta sẽ coi mọi sự vui thú thế gian là hèn hạ và đáng ghét. Ba mươi năm cuối đời của cha, cha Vianney chú tâm vào một việc duy nhất là yêu mến Chúa hết lòng mỗi ngày một hơn và lo liệu cho mọi người yêu mến Chúa. Cha nói rằng: Ở thế gian này chỉ có một sự biết và yêu mến Chúa là vui thật.

Phó thác hoàn toàn trong sự quan phòng của Chúa là một nhân đức. Chúng ta không thể chỉ cậy dựa vào sức riêng mình. Có Chúa, chúng ta sẽ có tất cả. Trong thực tế cuộc sống, chúng ta đi tìm nhiều bảo hiểm khác ngoài Chúa. Chúng ta dựa vào các bảo hiểm như là sự bảo đảm an toàn cho cuộc đời. Chúng ta có mọi thứ bảo hiểm từ sức khỏe, sống chết, của cải, tiền bạc… Chúng ta nghĩ rằng khi có đủ bảo hiểm chúng ta sẽ vui sống tự tại. Những của cải vật chất không thể là chỗ chúng ta tựa dựa và dung thân. Một lúc nào đó chúng ta cũng phải buông lại tất cả của cải vật chất để ra đi với hai bàn tay trắng. Công sức gom góp và thu nhặt rồi cũng tan đi như làn khói. Mọi sự trên trần gian thì nay còn mai mất. Chúng ta nên đặt niềm tin tưởng và phó thác trong sự quan phòng của Chúa.

Như lời kết,

Hôm nay các cuộc cử hành Năm Thánh Linh Mục đã vãn hồi và các biểu ngữ đã bạc mầu. Các cuộc hội ngộ linh mục cũng đã được tổ chức ở nhiều nơi rất ấn tượng. Anh em linh mục đã vui mừng gặp gỡ nhau và chia sẻ đời sống mục vụ trong nhiều hoàn cảnh riêng biệt. Kinh nghiệm mục vụ thì vô vàn, công việc thì bề bộn và cuộc sống thì chạy đuổi theo thời gian. Các sinh họat Phụng vụ và Mục vụ của Giáo Xứ thì liên tục trong năm. Các sinh hoạt thường xuyên của Giáo Xứ như: các Lễ Quan Thầy Xứ và các Hội Đoàn, Cấm Phòng Các Giới, Thăng Tiến đời sống Hôn nhân, Thăng tiến Gia đình, Hội thảo Giới trẻ , Sinh hoạt Thiếu Nhi..v.v… Hầu như không có lúc nào linh mục ngừng nghỉ. Xem ra bộ mặt bên ngoài của Xứ Đạo rất rộn ràng và sống động.  Điều này tốt và rất tốt.  

Năm Thánh Linh Mục mời gọi các linh mục đi vào chiều sâu của ơn gọi phục vụ. Các linh mục cần chạy đến với Chúa Kitô để múc tận nguồn ơn cứu độ mà phân phát cho mọi người. Ước chi mỗi linh mục học được nơi mẫu gương của cha Thánh Vianney một chút. Thực hành nhân đức mỗi ngày thêm một chút, mỗi việc phục vụ có ý nghĩa hơn một chút và đời sống gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể hơn một chút nữa. Các anh em linh mục chúng ta sẽ ghé thăm Nhà Thờ và gặp gỡ hối nhân thường xuyên hơn.

Lạy Chúa Giêsu, Thầy Cả Thượng Phẩm, xin uốn nắn lòng chúng con để chúng con học biết và dám xả thân mình để giúp cứu rỗi các linh hồn. Xin thánh Quan Thầy Gioan Maria Vianney phù trợ chúng con trên bước đường phục vụ. Xin Thiên Chúa Ba Ngôi đổ tràn hồng ân trên các linh mục của Chúa để các ngài luôn là chứng nhân của tình yêu. Xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho các linh mục.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng - Bronx, New York

 

VỀ MỤC LỤC
GHEN (3)

 

HIỂU VÀ GIÚP NGƯỜI BẠN GHEN 

Cần thiết để hiểu tâm lý của người ghen, nếu không, chúng ta đui mù với những nguyên nhân hiện hành.Thông tin về tâm lý phải được nắm giữ kỹ lưỡng và nếu thấy tai hại có thể xảy ra, tốt hơn phải nên tránh, phải ngưng trong một lúc để xem đâu là giá trị cần làm. Người ghen không thể nhìn thấy rõ mình vì đầy cảm xúc. Người đối diện với người ghen, không cảm thấy khó nhận ra những yếu tố tâm lý. Nhưng nó dùng để làm gì? Đó là điểm quyết định cho bất cứ một thông tin tâm lý nào. Chúng ta phải nhận thức rằng tâm lý có thể được dùng cho mục đích xấu cũng như tốt. Nó có thể được dùng như một vũ khí có sức mạnh nhất để phá hoại, hoặc có thể là căn bản cho thiện cảm và cảm thông. Nếu nạn nhân của người ghen lưu ý đến khám phá khoa học trong việc chỉ ra cho đối thủ rằng nó dùng cảm xúc để được chú ý hoặc làm bạo chúa thì kết quả không có lợi gì.  Nó chỉ làm tăng sự giận dữ và làm xấu hơn cái liên hệ bất hạnh đó mà thôi. Sự thấu hiểu tâm lý có thể được dùng một cách thích hợp bằng cách tránh diễn tả bằng lời nói điều mình biết, trái lại dùng kiến thức cho hành vi thích hợp và hành động hữu ích. 

Chúng ta có thể giúp người bạn có bệnh ghen đó không? Một người chồng có thể làm gì với người vợ ghen đó? Hầu hết chúng ta có kinh nghiệm tình trạng khó xử nầy sẽ từ chối công việc đó dẫu đó là công việc ta có thể làm được. Họ có thể viện lý rằng người kia không có lý trí. Họ không biết rằng họ muốn nói lý trí, nếu để thuyết phục thì đó chỉ là một cố gắng vô ích mà thôi. Vì họ dùng phương pháp sai lầm nên họ xem tình trạng vô phương cứu chữa. 

Chúng ta thử tưởng tượng một tình trạng ít thông thường hơn. Ông chồng về nhà buổi chiều, thấy bà vợ im lặng nặng nề. Cô ta không đáp lại lời chào của anh ta. Có sự căng thẳng trong bầu không khí gia đình. Cái gì xảy ra vậy? Không trả lời. Rõ ràng là cô nàng giận. Anh ta cũng trở nên giận và đòi hỏi một sự cắt nghĩa. Cuối cùng cô bậc khóc và nói: “Anh có thể trở lại với cô bạn gái cũ của anh!” Tại sao xáo trộn lại đến? 

Ông chồng trong trường hợp như thế phải làm gì? Nếu ông ta tử tế và biết quan tâm, ông ta cố gắng nói chuyện với nàng, cố gắng thuyết phục nàng rằng điều đó không đúng. Không bao lâu ông ta sẽ làm một sai lầm là: xin lỗi cho sự chậm trễ nói chuyện đó. Nàng không tin chàng dẫu cho chàng nói gì. Chàng sẽ càng hồi hộp và tức giận. Người ta khi giận dữ và chua cay thì nói nhiều. Nói mang người ta lại với nhau khi người ta trong trạng thái thân thiện, nhưng khi giận nhau và chống nhau lời nói là vũ khí làm người ta đau lòng hơn là tấn công thể xác. 

Đó là tiến trình trong sự cãi nhau về tình yêu của người ghen. Người bị cáo cố gắng bào chữa. Chúng ta tin nhiều vào lý luận và hiểu ít về tâm lý. Thay vì hành động đúng theo tâm lý, chúng ta cố gắng nói theo lý luận. 

Lý luận thì khó kết quả. Chúng ta có thể hoàn toàn đúng, nhưng chúng ta sai khi chúng ta cố gắng cắt nghĩa chúng ta là đúng. Chúng ta quên quan tâm xem thử những trường hợp như thế có phù hợp với lý lẽ hay không? Không quan trọng là chúng ta đúng hay sai, và việc chúng ta đúng cũng không đủ. Ngay cả chúng ta sai, chúng ta cũng có thể thành công nếu chúng ta hành động đúng theo tâm lý. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ thành công nếu chúng ta đúng theo lý luận và hành động sai theo tâm lý. Thái độ của người bạn đối diện được kích động bỡi cảm xúc mạnh, sẽ không bao giờ thay đổi bỡi những lý luận, tranh cãi có lý hoặc không, vì mỗi lý luận chúng ta dùng, ngưới kia có cả 3 cái lý luận có lý hơn. Kết quả chỉ là sự giận dỗi nhau. Một sự tranh cãi tới cùng trong sự cay đắng cho đến khi cả hai đều kiệt sức và hối hận vì đã làm khổ nhau hết mức. 

Một lỗi lầm khác là đặc tính trong việc đối đầu với người ghen vì chúng ta không hiểu cái gì đang trong đầu óc họ. Chúng ta không nhận biết cái gì tạo nên sự đau khổ hiện thời của họ. Chúng ta chỉ nhận ra sự bất công được làm cho chúng ta. Chúng ta cảm thấy bị tố cáo vô lý, bị xúc phạm không chính đáng. Sự cảm thấy không tự đủ của chính mình trong tình trạng nguy hiểm làm chúng ta giận dỗi. Trong lúc chúng ta không biết phải làm gì, chúng ta thù ghét và chống nhau. Thay vì một người sai, bây giờ cả hai đều sai. 

Thường những cảm giác ghen tương có thể được làm nhẹ đi trong cách thông thái và tế nhị nếu chúng ta bảo đảm về chúng ta, nếu chúng ta không xem chúng ta như bị hạ nhục hoăc bị lạm dụng. Một cái mỉm cười, một sự biểu lộ kiên nhẫn, một cái hôn nhẹ nhàng, một lời dịu ngọt chân thành sẽ tạo nên những điều kỳ lạ. Chúng ta có thể thấy một sự bớt căng thẳng dễ chịu làm dịu đi sự hồi hộp nếu chúng ta biết kiên nhẫn một chút. Quở trách và cãi lộn không mang lại cảm giác nghỉ ngơi, dễ chịu thoải mái thiết yếu. Chỉ sau khi bầu khí ảm đạm không còn và sự căng thẳng đã qua đi, mới có cơ hội cho sự giúp ích hiệu quả. 

Và người ghen cần sự giúp đỡ của chúng ta. Nói với họ rằng họ không đúng thì không cần thiết phải làm như vậy. Mọi người đều biết sự sai lầm của việc nhường nhịn đối với sự ghen tương. Thật ra nó vẫn còn tốt hơn là việc dùng lý luận. Vì chính họ không hiểu họ, nên họ diễn tả họ cách sai lầm. Sự tố cáo thì sai theo lý luận nhưng cảm giác mình không tự đủ và bị quên lãng thì không sai. Đó là yếu tố tâm lý. Người bạn có thể làm nhiều chuyện đối với việc khuyến khích và cung cấp một cảm giác chắc chán về sự an toàn. Hãy cho họ biết họ cần bao nhiêu để có thể giúp họ khuất phục được cảm giác không cảm thấy mình đủ.  

Một lỗi lầm nữa cần phải được tránh. Khi chúng ta cãi lộn giận dữ, chúng ta thường nhường cho những đòi hỏi của người ghen tương. Chúng ta cố gắng làm thõa lòng họ bằng cách nhường nhịn. Chúng ta hứa không muốn thấy ai khác nữa và sẽ ít đi thăm mẹ hơn, nhưng như vậy không giải quyết được gì. Nó chỉ tạo nên lòng tin rằng nếu chúng ta bị quở trách chúng ta sẽ nhường nhịn. Ngoài ra, nó không sản xuất một lương tâm tốt đủ nơi người tố cáo. Ngay cả sự ghen chiến thắng, người bạn chiến thắng nhận thấy sự không thoải mái nó đã tạo nên, và mỗi chiến thắng chỉ làm tăng sự sợ thất bại cuối cùng không tránh khỏi. Những điểm nầy cần nên nhớ khi phải đối đầu với người ghen: không xin lỗi, không lý luận, không thuyết phục, không nhường nhịn. Vững chắc và làm cái mình nghĩ đúng. Đầu hàng sẽ giúp chiến tranh, nhưng cho họ cái họ cần: tình cảm và sự tận hiến. 

GHEN MỘT VẤN ĐỀ TÂM THẦN 

Từ quan điểm về tâm thần, nói chung là khó chữa cho những người mắc phải bệnh ghen. Nếu họ đến để xin giúp đỡ là để chống lại bạn họ. Họ tố cáo sự bất công và bất chính của người bạn họ. Họ ít sẵn sàng để nghe về chính họ. Họ muốn có sự thay đổi nơi bạn họ chứ không phải là họ. Sự chữa trị chỉ có hiệu quả nếu người ghen thành thật muốn được giúp đỡ. 

Một phương cách để chữa trị người ghen là tỏ cho họ thấy cái họ muốn. Gọi cảm xúc và hành vi của họ là ngông cuồng và vô nghĩa thì không tạo được ấn tượng tốt đẹp. Những phương cách như thế thiếu mấu chốt hoàn toàn. Trước nhất, cảm giác của họ thì có thật. Nó có thể là vô nghĩa, nhưng nó hiện hữu và đau xót. Thứ đến, người ghen có thể đồng ý và chấp nhận sự ghen của họ là vô lý. Nhưng điều đó có giúp gì họ không? Trái lại, nó chỉ làm tăng thêm mây mù trên vấn đề có thật. Không ai có những cảm xúc vô nghĩa. Người ta chỉ không ý thức về ý nghĩa của nó thôi. 

Vì thế, cách chữa bệnh ghen là vấn đề chữa bệnh tâm lý. Những nguyên nhân nằm bên dưới của sự rối loạn phải được tìm thấy trước, và bệnh nhân phải được giúp để hiểu chính họ trong cái nhìn toàn diện về cuộc đời trong lối sống của họ. Sự hiểu biết và thấu triệt nầy mà thôi thì không đủ và không có ý nghĩa ngoại trừ nó dẫn đến một sự thay đổi, một sự sữa chữa cái quan niệm sai lầm và phương cách, dẫn đến sự tái hướng dẫn có liên quan đến vị trí xã hội và sự tham gia sinh hoạt xã hội. Cảm giác mặc cảm phải bị loại bỏ. Thiếu sự thích thú sinh hoạt xã hội của bệnh nhân có nền tảng trên kinh nghiệm của họ và những cách cắt nghĩa sai lầm suốt thời thơ ấu phải được khuất phục. Trong cách thế đó, bệnh nhân phát triển sự can đảm mới và tự tin để giải quyết những vấn đề xã hội cách có hiệu quả và đứng đắn. 

Những người bị rối loạn quá nhiều có thể chống cự bất cứ cố gắng nào muốn chữa họ dầu họ giả đò đi tìm sự giúp đỡ. Sự ghen tương của người nghiện rượu không thể được chữa trị mà không chữa họ khỏi bệnh nghiện rượu trước. Ghen tương có khi là một triệu chứng của sự rối loạn tâm thần trầm trọng. Đôi khi nó là một ý tưởng ám ảnh trầm trọng thuộc nhóm thần kinh. Trong trường hợp nầy, chữa trị rất là khó.  

Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC
SỨC MẠNH CỦA THA THỨ
 

Sống Sao Cho Đẹp hôm nay xin mượn nhân vật Jean Valjean (Giăng văn Giăng) trong tác phẩm nổi tiếng Những Người Khốn Khổ của Vitor Hugo để bàn về chủ đề tha thứ-hòa giải. Qua nhân vật này, chúng ta sẽ học được giá trị và sức mạnh của sự tha thứ khi chúng ta tha thứ cho người khác.

Câu chuyện xảy ra tại nước Pháp vào thế kỷ 19. Giăng văn Giăng là một phạm nhân khổ sai vừa ra khỏi tù sau gần 20 năm thụ án vị tội ăn cắp một ổ bánh mì. Sau khi được tự do, Giăng văn Giăng vẫn thực hiện việc ăn cắp vì xã hội ruồng bỏ ông ta. Lần này, anh ta đã ăn cắp những chén đĩa bạc của vị ân nhân đã đãi anh ta một bữa ăn tối và cho ngủ qua đêm. Vị ân nhân ấy là giám mục Myriel. Hôm sau, Giăng văn Giăng bị bắt với bằng chứng trước mắt. Nhưng ngay tức thì, Giám mục Myriel đã nhanh nhẹn nói với cảnh sát rằng: những chén đĩa bằng bặc kia là quà tặng mà ngài tặng Giăng văn Giăng. Xúc động trước lòng đại lượng và cao thượng của giám mục Myriel, Giăng văn Giăng đã trở nên con người mới; ông đã thành công cả về mặt tinh thần và vật chất.

Sau 20 năm bị giam giữ, nhà tù đã không thể làm cho con người Giăng văn Giăng tốt hơn, nhưng chỉ bằng một hành động tha thứ cao thượng của giám mục Myriel, Giăng văn Giăng đã thay đổi thành một con người hoàn toàn mới và hữu ích cho xã hội. Ông trở thành thị trưởng của một thành phố và đã tiếp tục dành trọn cuộc đời của mình để giúp người nghèo và không ngừng tha thứ cho kẻ hại mình.

Quí bạn thân mến, ai ai trong chúng ta cũng được mời gọi không chỉ sống đúng theo pháp luật, nhưng còn là sống đẹp và biết tôn trọng phẩm giá người khác. Hành động của giám mục Myriel đã làm cho Giăng văn Giăng thay đổi không phải vì giá trị của những chiếc đĩa bạc đã giúp cho Giăng văn Giăng một số vốn làm ăn, nhưng quan trọng hơn là giám mục Myriel đã giúp cho Giăng văn Giăng mở mắt ra để thực sự thấy lòng tốt nơi những người xung quanh mình. Chính khả năng nhận ra được lòng tốt nơi những người khác đã giúp cho Giăng văn Giăng có niềm hy vọng và tin vào cuộc đời. Chính niềm hy vọng này đã giúp cho Giăng văn Giăng thành công và trở nên con người tốt.

Thưa bạn, sức  mạnh của tha thứ là nằm ở chỗ đó. Khi bạn tha thứ cho một ai thì hành động tha thứ này nó không chỉ là hành động giữa bạn và người ấy, nhưng nó có ảnh hưởng và tác dụng rộng lớn trong mối quan hệ xã hội. Biết đâu, nhờ thái độ hòa giải tha thứ với một ai đó mà bạn có thể góp phần vào hạnh phúc cho gia đình của đương sự ấy thì sao!? Biết đâu, lời nói xin lỗi của bạn hôm nay sẽ giúp cho ai đó có một giấc ngũ ngon và một bầu khí chan hòa trong bửa cơm chiều với gia đình họ thì sao!? Như thế, việc tha thứ cho người khác không chỉ ảnh hưởng giữa bạn và người ấy, nhưng nó còn như là hành động trao tặng một món quà. Lời xin lỗi và thái độ hòa giải của bạn với người ấy có thể sẽ tạo một sức sống mới cho họ; bạn cho họ một niềm hy vọng và niềm tin vào cuộc đời; bạn cho họ biết rằng lòng tốt và con người tốt vẫn hiện diện trong một thế giới mà xem chừng như nhiều hận thù và ghen ghét.

Bạn thân mến, khi bạn tha thứ và hòa giải, bạn không mất gì cả, nhưng là một hành động cao thượng để giúp người. Bạn hãy giúp cho những người mà theo bạn là không thể tha thứ ấy cơ hội để họ có niềm tin vào lòng tốt con người qua hành động của bạn.

Lạy Chúa, con sẽ tha thứ cho anh em con, vì con muốn họ hạnh phúc hơn. Con muốn trao tặng họ niềm tin và hy vọng vào cuộc đời bằng chính hành động của con.

 

Br. Huynhquảng  

Kính mời ghé thăm mục Sống Sao Cho Đẹp bằng audio tai www.gdthanhgiusetampa.org

VỀ MỤC LỤC
NHÌN NHẬN SỰ BÌNH ĐẲNG CỦA VỢ

 

Tác phẩm: Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

A5. NHÌN NHẬN SỰ BÌNH ĐẲNG CỦA VỢ

Linh mục Bernard T., nhà luân lý học nổi tiếng người Đức, đã kể lại rằng:

Kỷ niệm đẹp nhất về việc tông đồ trong đời tôi là lần giải tội đầu tiên.

Hôm đó, một người đàn ông đến xưng với cha về một thứ tội dường như không có trong danh mục của bản hướng dẫn xét mình. Người đó xưng thú rằng, mình đã không vâng phục vợ. Lần đầu tiên nghe thứ tội lạ lùng như thế, vị linh mục mới hỏi hối nhân:

-      Từ trước đến nay tôi chỉ nghe nói rằng, người vợ phải phục tùng chồng, sao ông lại xưng thú rằng, ông đã không vâng phục vợ?

Người đàn ông giải thích:

-      Thưa cha, con có tội, là bởi vì vợ con có lý mà con vẫn không chấp nhận điều đó.

Nghe thế, vị linh mục mới hỏi hối nhân:

-      Ông có chấp nhận việc đền tội bằng cách trở về nói với vợ ông rằng, bà ta có lý không? 

1. Chấp nhận sự có lý của người vợ không phải chỉ là một việc làm đơn giản. Đó là đòi hỏi cốt yếu của một cái nhìn đúng đắn của người chồng đối với vợ mình. Cái nhìn đó là người vợ bình đẳng với chồng. Tình yêu vợ chồng đích thực chỉ có thể được xây dựng trên sự bình đẳng mà thôi. Đó là điều mà thiết tưởng những người chồng trẻ nên tâm niệm mỗi ngày.

Để giúp hoàn chỉnh đời sống hôn nhân, một người chồng trẻ có lẽ nên xét mình bằng câu hỏi: Tại sao tôi lập gia đình? Tại sao tôi cưới vợ?

Tôi cưới vợ, bởi vì tôi cần có một người nội trợ nấu nướng, chăm sóc cửa nhà.

Tôi cưới vợ, bởi vì tôi có tiền, tôi muốn khuyếch trương công việc làm ăn của tôi.

Tôi cưới vợ, bởi vì tôi muốn có một cuộc sống chừng mực, tôi muốn có những đứa con.

Tôi cưới vợ, bởi vì đó là phong tục của xứ sở tôi, không ai làm khác hơn khi đến tuổi của tôi.

Nếu tôi lập gia đình vì một hay vì tất cả những lý do trên đây thì có lẽ người vợ chỉ còn là một phương tiện hay dụng cụ để tôi giải quyết những vấn đề của tôi mà thôi. Những vấn đề đó có thể thuộc lãnh vực tâm lý, sinh lý, hay xã hội. Nhưng dù nhìn dưới bất cứ khía cạnh nào, người vợ cũng chỉ là một dụng cụ. Liệu trong một cái nhìn như thế về người vợ có thể có một tình yêu vợ chồng đích thực không?

2. Một quan niệm như thế về người vợ hẳn vẫn còn in đậm trong tâm trí của nhiều người chồng. Từ chỗ chọn vợ, kén vợ đến việc “dạy vợ từ thuở ban sơ mới về”. Thái độ này không khỏi hàm ẩn một cái nhìn “chồng chúa, vợ tôi” của nhiều người  chúng ta. Người ta đi chọn vợ như chọn một món hàng. Người ta dạy vợ bởi vì vợ là một dụng cụ trong tay cần phải được nhuần nhuyễn mới thỏa mãn được những mục đích mình đề ra.

Vì cái nhìn ấy, người chồng tự cho mình quyền dạy dỗ, răn bảo, khuyên nhủ, hăm đe, và nếu cần, sửa trị bằng những hành động vũ phu. Tại sao có nhiều người chồng thường hành hung vợ? Phải chăng vì họ cho rằng, người vợ trong tay họ như một dụng cụ cần được uốn nắn và sử dụng theo ý mình muốn.

Đành rằng, với sức mạnh của đôi tay, với sự vững chãi trong lý luận, người đàn ông phải đóng vai trò làm chủ, lèo lái trong gia đình. Nhưng điều đó không có nghĩa là người đàn ông đương nhiên làm chủ hay chiếm hữu người vợ như một dụng cụ.

3. Cuộc sống hôn nhân đích thực chỉ có thể xây dựng trên tình yêu. Nói đến tình yêu thì phải nói đến tôn trọng bình đẳng. Tại sao tôi cưới vợ? Câu trả lời đúng đắn phải là: vì tôi yêu thương, và tôi muốn sống hoàn toàn và trọn vẹn cho vợ tôi.

Yêu thương thiết yếu có nghĩa là muốn điều thiện hảo cho người mình yêu. Yêu thương là sống cho và hy sinh tất cả vì người mình yêu. Đó phải là tâm niệm của những người chồng trẻ. Một tâm niệm như thế sẽ khiến cho người chồng gạt bỏ được cái tư tưởng muốn chiếm đoạt và làm chủ vợ mình. Một tâm niệm như thế sẽ giúp họ chấp nhận những khác biệt hay cả những khuyết điểm nơi người vợ.

Mỗi con người là một huyền nhiệm. Điều đó vẫn tiếp tục có giá trị trong đời sống vợ chồng. Mãi mãi người vợ là một kho tàng vô tận để cho người chồng khám phá. Tâm hồn người phụ nữ phong phú đến nỗi dù cả một đời cũng sẽ quá ngắn ngủi để cho người chồng có thể hiểu được trọn vẹn vợ mình. Nơi người vợ, những bất toàn và những cái đẹp quyện vào nhau khắng khít đến độ người chồng phải đón nhận tất cả như một toàn thể.

Một tác giả đã nói: “Người đàn bà dịu dàng và quí phái đến đâu cũng có chút diêm sinh của hỏa ngục. Và không có một người đàn bà nào xấu xa đến độ không còn một góc của thiên đàng trong tâm hồn họ”.

Đón nhận người vợ với tất cả những khuyết điểm và đức tính của họ phải là thái độ cơ bản của một người chồng trưởng thành. Lắm khi trong đời sống vợ chồng, người chồng chỉ lưu ý đến những khuyết điểm mà quên đi những đức tính tốt của vợ mình.

Tình yêu đích thực là một tình yêu tỉnh thức và quảng đại. Tỉnh thức để nhìn ra những đức tính tốt tiềm ẩn nơi người vợ. Quảng đại để có thể cảm thông và tha thứ cho những khuyết điểm của vợ. Đôi khi những khuyết điểm ấy cũng có thể là những đức tính tốt được thể hiện một cách lệch lạc. Chẳng hạn như tính hay ghen nơi người đàn bà.

Người ta vẫn nói một chút ghen tương là gia vị làm cho tình yêu thêm đậm đà. Nhưng gia vị nào được dùng quá liều lượng cũng biến thức ăn ra mặn chát, chua cay. Một chút ghen tương của người vợ là biểu hiện của tình yêu và sự âu yếm mà người vợ dành cho chồng, nhưng khi ghen tương trở thành bệnh hoạn thì tình yêu chỉ còn là mật đắng.

Dẫu sao người chồng cũng nên hiểu rằng, tự nó, ghen tương là mặt trái của một tình yêu không được hướng dẫn. Hiểu được như thế, người chồng sẽ dễ dàng cảm thông với vợ. Đối với những khuyết điểm khác của vợ cũng thế. Nếu người chồng biết nhận ra đó là những tín hiệu của những đức tính tốt, ông sẽ dễ dàng chấp nhận con người của vợ mình hơn.

4. Bước vào đời sống hôn nhân, những người chồng trẻ không nên ghĩ rằng, họ sẽ làm chủ hay làm thầy dạy của vợ mình. Tình yêu của họ phải được xây dựng trên sự tôn trọng và bình đằng. Phải luôn ý thức, chức năng của người chồng không phải là uốn nắn, cải tạo người vợ theo như ý muốn của mình. Người vợ sẽ không bao giờ trở thành mẫu người như người chồng mong muốn.

Với những đức tính cũng như khuyết điểm, người vợ là một thực thể độc nhất vô nhị, không giống ai. Người vợ là đối tượng của tìm hiểu, của cảm thông, của tha thứ. Chỉ trong cái nhìn và cách cư xử như thế, người vợ mới là người bạn đường cùng đồng hành trong yêu thương, chứ không là một dụng cụ.

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
KHÍA CẠNH TÂM LÝ VÀ TÍNH DỤC TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI 

 

[BẢN THẢO]

LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN

TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

CHƯƠNG MỘT 

LINH MỤC GIÁO PHẬN TƯƠNG LAI

sỐng TỐT đỜi SỐNG đỘc thân LINH MỤC

TRONG BỐI CẢNH GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

(tiếp theo)

E. KHÍA CẠNH TÂM LÝ VÀ TÍNH DỤC TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI 

E.I. NhẬn đỊnh tỔng quát

Tự nhiên, chúng ta được tự do một phần trong sự chọn lựa sử dụng ý muốn, lý trí hầu có thể làm chủ bản thân, điều khiển chính mình đến một đối tượng khao khát nhằm mục đích tối hậu là được biến đổi trong Chúa Kitô thành một lời đáp trả trọn vẹn với ân sủng và hội nhập vào chính cuộc sống mình. 

Bản thân (Cái Tôi) mỗi người là điểm gặp gỡ của Tâm lý học và Thần học: Như những con người, chúng ta đáp lại Thiên Chúa qua các định luật tâm lý mà Ngài đã ghi khắc trong chúng ta. Trong tiến trình đáp trả đó, chúng ta bị thách đố đặt trật tự vào cuộc đời chúng ta như thánh Augustinô nói: “Nhân đức là tình yêu có trật tự”. Nhưng khi tình yêu bị rối loạn (mất trật tự), chúng ta nhận ra qua các dấu hiệu này: sự đi trệch định hướng cuộc đời và tìm tự tôn vinh mình. 

Các cấp độ của Cái Tôi được mô tả qua bốn vòng tròn đồng tâm :

-         Vòng ngoài cùng: Thế giới, các thực tại bên ngoài (tha nhân, xã hội, tạo thành, các biến cố …);

-         Vòng kế tiếp: Thân xác – tâm sinh lý;

-         Vòng tiếp theo: Tâm thể - tâm lý xã hội;

-         Vòng tâm: Tinh thần con người – tâm lý tinh thần hay tinh thần hữu lý, gồm có:

·        khả năng hiểu biết - cảm nhận - trực giác - tưởng tượng – ký ức – ý muốn;

·        Khả năng cho các nhân đức như tình yêu – tha thứ - niềm vui - nhẫn nại …

“Chỉ có người có khả năng làm chủ mình có thể trở thành một quà tặng cho kẻ khác, một quà tặng cho Chúa trọn vẹn đến đỗi người ấy thành chiếc bình trong suốt cho ánh sáng của Chúa chiếu qua” (J. Riddick) 

Cái Tôi có hai định hướng:

Định hướng sai lầm: Tình yêu cho thế gian… một đời sống trống rỗng “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi” (1 Ga 2, 15-17). Cái nổi bật trong định hướng sai lầm này là tính chất trần tục: khoái lạc, của cải, địa vị / quyền lực. 

Định hướng đích thực: Sự sống dồi dào “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Cái nổi bật trong định hướng đích thực này là sự sống trở nên giống Chúa Kitô trong các thiên hướng, thái độ, nhân đức dẫn tới lời mời gọi của mọi tín hữu. 

Cuộc chiến đấu: Chúng ta trải nghiệm những sức lôi cuốn và thúc đẩy đến từ hai hướng đối nghịch nhau: cái tôi bị thống trị bởi các nhu cầu và cái tôi bị thống trị bởi các giá trị. Ơn gọi vào đời sống thánh hiến là triệt để đi theo Chúa Giêsu. Đó là lời kêu gọi tới một sự biến đổi con tim nhân loại qua các Lời Khuyên Phúc Âm.  

 Mỗi người sống kinh nghiệm ơn gọi đều trải qua kinh nghiệm sống cái tôi của mình, hoặc đặt trọng tâm nơi mình hoặc đặt trọng tâm nơi Chúa, mà có định hướng đúng hay định hướng sai lầm:

·        Định hướng sai lầm đi theo hình ảnh cái Tôi: khoái lạc, sở hữu của cải, địa vị/quyền lực.

·        Định hướng đích thực họa theo hình ảnh Thiên Chúa: Thanh Khiết, Khó Nghèo, Vâng Lời.

·        Chiến đấu: Trong cả hai định hướng này, chúng ta kinh nghiệm sự có mặt của những thúc đẩy của con người tự nhiên: vui thích, tăng trưởng, cho đi và lãnh nhận. 

E.II. NĂM ĐỊNH LUẬT TÂM SINH LÝ NAM NỮ  

E.II.1 Luật Ưu Tiên

Nơi người nữ: trái tim ưu tiên. Điều ưu tiên là một quả tim, một tình cảm. Một trái tim muốn được hòa nhịp với trái tim khác, một tình cảm tha thiết muốn hiến trọn cho người mình yêu. Nó ẩn chứa một cái gì thanh nhã trong đó: Người nữ muốn mang đến cho người mình yêu một trái tim muốn yêu và muốn được yêu đến cực độ.  

Nơi người nam, thể xác ưu tiên. Khi người nam nghĩ đến người nữ thường hình dung tới thân hình, đường nét, sắc diện thể chất… Do đó, đứng trước một thiếu nữ đẹp, người thanh niên sẽ thấy thể xác xúc động trước, rồi sau đó tình cảm và trái tim mới hoà nhịp theo. Người nam dễ bị lôi cuốn bởi thể xác người nữ, và thường mau chóng hướng tới việc kết hợp thể xác. 

Sự sai biệt này có thể gây nên những khó khăn, những nguy hiểm...

Người nữ dễ dàng bị chinh phục bằng tình cảm: nể nang, tội nghiệp, thương hại…, để rồi dễ dàng mất tự chủ trước tiếng gọi của con tim, đưa đến nguy cơ nhượng bộ đòi hỏi thể xác của phái nam. Trái lại, người nam dễ bị chinh phục bởi những đường nét duyên dáng nơi thân xác người nữ, khó lòng tự kiềm chế và thường đòi hỏi mau chóng kết hợp thể xác, coi đó như một bằng chứng tình yêu. 

Người nữ nên để ý điểm này để tránh những nhượng bộ gây lỡ làng, với hậu quả đáng tiếc khiến phải ân hận suốt đời. Còn người nam nên để ý điểm yếu của mình để làm chủ bản thân, kính trọng người nữ, hiểu rằng người nữ nặng về tình cảm, sự săn sóc ân cần tế nhị, lời âu yếm, cử chỉ thân mật, dịu dàng, kính trọng. Do đó, người nam đừng quá chú ý tới thể xác hoặc vội vàng đốt giai đoạn trong khi gần gũi với...  

Người nữ dễ bị chi phối bởi tình cảm, tính nhẹ dạ hay thay đổi, ít óc lý luận và thường hướng về hành động mau chóng của trực giác... Người nữ hãy thận trọng trước những xúc cảm đầu tiên hay trước hành động của mình, đừng nghe lời dỗ ngọt của người nam mà  dễ dàng nhượng bộ: “Chuông già đồng điếu chuông kiêu, anh già lời nói em xiêu tấm lòng

Người nữ hãy lưu ý tới óc lý luận của người nam, có khi rất ngụy biện để đạt mục đích (vd yêu cho tới bến để có kinh nghiệm mà tu cho chắc!), và cũng đừng theo tình cảm nhiều khi rất mâu thuẫn của mình (có mà nói không hay ngược lại). Người nam không cãi lý với phụ nữ, nhưng tìm cách khơi dậy tình cảm, lòng trắc ẩn của người nữ để thành công. Người nữ biết tâm lý đàn ông như vậy thì nên thực tế, đừng quá lý tưởng hay dại dột. 

E.II.2 Luật Phân Cách

Trái tim người nữ chỉ có một ngăn và dành hết cho tình yêu. Trái tim người phụ nữ có thể nói là một toàn thể dành hết cho người mình yêu, không có phân cách. Mối tình dành cho người yêu chiếm hết trái tim chị. Chị chỉ nghĩ đến anh, sống chỉ vì anh, sống để yêu và được yêu. Vì thế khi không yêu nữa thì lập tức anh bị tống khứ hoàn toàn ra khỏi trái tim chị, và đứa con hoặc nhân tình sẽ thay thế. Hai mối tình không thể chung sống hòa bình (đánh ghen, và có khi đánh ghen rất dại và ngông cuồng, đến tàn bạo bất nhân). Tình yêu chi phối mọi hoạt động. Đó là đặc điểm trái tim phụ nữ.  

Trái lại, các chuyên gia tâm lý nói trái tim người nam thì lại khác: rắc rối, nhiều chuyện, có tới 4 ngăn và các ngăn ấy hoàn toàn biệt lập nhau, khiến cho người nữ không hiểu nổi:

·    Ngăn thứ nhất: dành cho vợ. Anh yêu vợ và khi ở với vợ là không nghĩ tới gì khác.

·    Ngăn thứ hai: dành chỗ quan trọng cho sự nghiệp, địa vị. Có nhiều người vì sự nghiệp mà quên cả vợ con, gia đình.

·    Ngăn thứ ba: dành cho những việc anh làm vì sở thích, vì lý tưởng, chính trị, xã hội, giáo dục…

·    Ngăn thứ tư: dành cho giải trí, nghỉ ngơi. 

Người nữ hãy an tâm tin rằng anh yêu chị, thương gia đình. Đừng thấy anh say mê những công việc khác mà nghĩ rằng anh thờ ơ với gia đình, rồi đâm ra nghi ngờ, khó chịu. Trái lại, hãy tập cảm thông với anh, chia sẻ với anh và trong mọi lúc hãy tươi cười đón anh, lo âu với anh, an ủi anh và khuyến khích anh. Đừng ngăn cấm hoặc cản trở công việc của anh.  

Anh không nên bắt chị phải theo những hoạt động anh thích, và phải chừng mực trong công việc. Nếu được, nên để chị tham gia công việc với mình. Biết đền bù bằng lời nói, thái độ, cử chỉ yêu thương, hành vi phụ giúp công việc của chị. Nhớ rằng chị coi trọng gia đình hơn nghề nghiệp, quan tâm đến con người hơn công việc. 

E.II.3 Luật Thính Giác

Người nữ có lỗ tai to. Chị không chỉ là một trái tim mà còn là một lỗ tai to, một lỗ tai to gắn liền với trái tim. Những gì vào lỗ tai rơi thẳng ngay vào tim. Do đó chị có nhược điểm này: thích nghe và dễ tin những điều người ta nói. Chị dễ tin những lời tán tỉnh, dịu ngọt; dễ chú ý đến điều người ta nói hơn là việc người ta làm: “Chuông già đồng điếu chuống kiêu, anh già lời nói em xiêu tấm lòng!” Chị muốn được yêu bằng những lời âu yếm dịu dàng tâm sự. Chị thích NGHE. Anh làm những công này việc nọ giúp chị mà không nói gì, chị vẫn cho là anh không thương chị hoặc chưa thương trọn vẹn.  

Trái lại, người nam lại ngắn hay thiếu cái lưỡi. Ở quán xá hoặc ở những nơi khác anh nói thao thao bất tuyệt về những chuyện chính trị, xã hội, nghề nghiệp… vì những chuyện đó có tính cách chung chung, vô thưởng vô phạt. Còn ở nhà thì ngược lại: anh câm như hến, ít nói, trầm ngâm, vì anh không thích những chuyện vụn vặt, chi tiết. Anh ngại tâm sự, bộc lộ có đụng chạm tới bản thân mình.

Nhưng sự im lặng thường tạo nên bầu không khí nặng nề cho cả hai. Vì thế, anh thích ra quán cà phê hay đến một nơi vui nhộn; còn chị thích la cà bên nhà hàng xóm để chuyện trò “ngồi lê đôi mách”, “vuốt râu ông nọ đặt cằm bà kia”… Do đó phải có đối thoại, trao đổi, sẽ tránh được những nghi ngờ, hiểu lầm, xích mích. Yêu là nói và nghe. Anh nghe chị tâm sự, nói chuyện nhà cửa, gạo cơm, con cái, bạn bè… Chị nghe anh nói chuyện về chính trị, xã hội, thể thao…  

Yêu là đối thoại, là mở tâm hồn và lý trí để cùng đón nhận, tham dự, chia sẻ tâm tình của nhau. Anh phải tập nói, phải phá tan bầu không khí nặng nề trong gia đình. Anh phải nói những lời yêu thương,… Nhắc lại những kỷ niệm đẹp, êm đềm ngày trước, vì chị thích sống lại những quá khứ đẹp.

Anh phải nói với cung điệu nhẹ nhàng ôn tồn. Những gì anh nói với giọng dịu dàng, âu yếm, kính trọng, chị sẽ cho là đúng, chị sẽ chấp nhận. Những gì anh nói với giọng gắt gỏng, khó chịu hoặc khinh khỉnh, chị sẽ cho là sai, khó chấp nhận mặc dầu đó là những điều đúng. Vậy khi phải chỉ trích, xây dựng những khuyết điểm của chị, anh phải áp dụng như thế; đừng bao giờ chê trách hoặc chế diễu chị, nhất là trước mặt người khác.  

E.II.4 Luật Chi Tiết

Người nữ để ý đến các chi tiết, hay chú ý đến những cái cỏn con của sự việc, thích những mẫu tin vụn vặt. Người nam quan tâm đến điều cốt yếu, chỉ nhớ đến những nét đại cương, những chuyện đáng để ý, lại thích những tin chính trị, xã hội, quốc sự…  

Sự sai biệt tâm lý này là nguyên do nhiều vui buồn, đau khổ :

Chị chú ý, quan sát và nhớ kỹ những chi tiết trong đời sống của anh, của gia đình trong khi anh ít để ý và hay quên. Chúa sinh ra chị có giác quan nhạy cảm về chi tiết để chị có khả năng chu toàn sứ mạng làm vợ, làm mẹ, săn sóc gia đình, nuôi con… đòi hỏi phải làm bao nhiêu việc nhỏ, bao nhiêu chi tiết. Một việc nhỏ cũng làm chị bực mình, đau khổ. Một quên sót của anh đối với chị làm chị buồn tủi, giận dữ, nghi ngờ.  

Anh thường dễ bực bội, cáu kỉnh khi chị hay than phiền về những chuyện nhỏ nhặt, hoặc khó chịu khi thấy chị hay dò xét… Hiểu như vậy, chị hãy rộng lượng với anh, thông cảm với những dự tính công việc, những sinh hoạt hoặc giao tế của anh. Vì thế anh hãy chịu khó để ý đến chị, nhẫn nại nghe chị nói, dầu là những chuyện nhỏ mọn. Hãy lợi dụng những cơ hội, những chi tiết làm chị vui: quà tặng ngày sinh nhật, những ngày vui buồn của chị, một lời khen, một quan tâm, một giúp đỡ… Cả hai phải biết rằng Yêu là nghĩ đến người yêu và tìm hạnh phúc cho người yêu. 

E.II.5 Luật Bất Đồng Cảm

Người nữ phản ứng chậm, nhưng kéo dài. Trong phạm vi tình cảm, người nữ như một trái bom nổ chậm. Chị không phản ứng cùng lúc, nhưng sau anh. Tuy nhiên khi đã xúc cảm thì nỗi cảm xúc ấy kéo dài hơn anh. Người nữ như một đầu máy xe lửa: chuyển bánh chậm, khi có đà đi rất nhanh, nhưng ngưng lại chậm.  

Người nam phản ứng nhanh, nhưng cũng mau dứt. Nơi người nam, tình cảm chóng bộc phát mà cũng chóng nguội tàn. Vì vậy mà “cú sét ái tình” thường xảy ra nơi thanh niên hơn nơi thiếu nữ. Trong mọi việc, anh hãy kiên nhẫn, chờ đợi, chuẩn bị... Trong tình yêu thân mật cũng vậy: tránh những cử chỉ vội vàng, hấp tấp, mà nên dịu dàng, tế nhị. Hiểu biết định luật tâm lý này để biết tha thứ cho nhau, tránh những xích mích nghi kỵ. 

Tóm lại, những định luật vừa nói trên không áp dụng riêng rẽ nhưng bổ túc, liên hệ với nhau và là những định luật rất quan trọng chi phối đời sống nam nữ. Nhưng đó không phải là tất cả những sự khác biệt, bởi mỗi cá nhân là một “huyền nhiệm” không dò thấu. Những định luật này rất hữu ích để giúp bạn hiểu được người kia và khi nắm vững được những khác biệt tâm sinh lý này, bạn sẽ tránh được những phán đoán, những thái độ chủ quan thường đưa đến bất hòa, đổ vỡ, thua thiệt.

(Slideshow Truyền thuyết tạo dựng người nữ) 

E.III. VẤN ĐỀ THỦ DÂM 

E.III.1 Định nghĩa và thực trạng         

MASTURBATION: Manus (tay) – Turbatio (kích thích). Thủ dâm là dùng tay kích thích bộ phận sinh dục để tìm đạt được khoái cảm sinh dục. Sau hành động thủ dâm, phần đông cảm thấy ngượng ngập, mặc cảm tội lỗi, lo lắng, chán nản, hận mình.

Thủ dâm được thực hành khá phổ biến, cả nơi những người có gia đình, nhất là nơi người độc thân trẻ, có người coi như không có gì sau hành động ấy, còn người khác lại bị lương tâm ray rứt vì hành động tính dục đơn độc riêng tư và do căng thẳng trầm trọng này (x. Giải mã giấc mơ tình dục). 

Thủ dâm có thể xảy ra cùng với những liên hệ khác tính luyến ái (KTLA) hay đồng tính luyến ái (ĐTLA): làm cho mình, làm cho người khác và để người khác làm cho mình. Có người coi thủ dâm là sự dữ nhỏ hơn trong hai sự dữ (minus malum): cái thay thế cho hoạt động ĐTLA hay KTLA; hoặc để điều hướng cái tôi của mình hơn là dính líu với trẻ em hay một người nào đó. 

Thủ dâm không kéo dài suốt đời người độc thân, cũng như giao hợp không kéo dài suốt đời người có gia đình (x. St 18,12: Sara cười thầm tự bảo ‘Mình đã cằn cỗi rồi còn tìm lạc thú nữa sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!). Đó là một cuộc chiến đấu và phải đi vào cuộc chiến đấu ấy: Bỏ được là lý tưởng, để việc tận hiến cho Chúa được chu toàn và hoàn toàn trao hiến cho Chúa.  

Cầu nguyện cho bỏ được thủ dâm như một phần cần thiết cho tăng trưởng và phát triển con người, cũng như trong cuộc sống và sứ vụ ơn gọi. Quả thế, nếu một mình mà không làm chủ và thắng vượt được chính mình, thì làm sao có thể làm chủ và thắng vượt được khi gặp phải hoàn cảnh éo le hai người khác phái cùng tác động lên nhau! 

Ngày sáu khắc êm trôi lặng lẻ, Chúa ngăn ngừa chẳng để phút giây, Tay chân miệng lưỡi hình hài, Buông theo tội lỗi mà đầy bợn nhơ.

Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Năm Tuần I TN 

E.III.2 Các loại thủ dâm

·    Thủ dâm trẻ nít: Trẻ, trước tuổi dậy thì, tìm khám phá cơ thể, trong đó có vùng sinh dục của mình, như một phần tăng trưởng bình thường.[16]

·    Thủ dâm thiếu niên: Xảy ra trong tuổi dậy thì và đa số trường hợp thủ dâm thuộc thời kỳ này.

·    Thủ dâm trưởng thành: Loại thủ dâm này phổ thông với người trưởng thành (người độc thân, người chưa kết hôn tránh giao hợp trước hôn nhân) và như một lối thoát căng thẳng.

·    Thủ dâm xúc phạm: Chọn bộ phận sinh dục để giao hợp “một mình.” Có tính cách tác hại vì phân rã hơn là hiệp nhất nhân vị. 

    E.III.3 Nguyên do và mục tiêu                

·    Do ngứa ngáy (phimosis - chít hẹp bao da quy đầu gây viêm nhiễm ngứa ngáy phải gãi liên tục); buồn chán, lo lắng, tâm trạng vở mộng, cô đơn.

·    Lối thoát dễ dàng để xả căng thẳng.

·    Thay thế cho quan hệ tình dục.

·    Đối phó và trốn thoát sự thân mật tính dục liên nhân vị.

·    Bắt im lặng lời mời gọi vào tình dục yêu đương liên nhân vị. 

    E.III.4 Những thỏa hiệp

·    Sợ đàn bà: Không muốn bị liên lụy tình dục hay tình cảm với đàn bà (sợ hậu quả), hay vì không được liên hệ với đàn bà, nên tìm thỏa hiệp với những hình thức tính dục khác (đồng tính ái), gây nên một tâm lý tính dục thiếu trưởng thành.

·    Sách báo, phim ảnh khiêu dâm nhằm kích thích tính dục do:

-         miêu tả các đối tượng và những tình cảnh gợi tình (tác phẩm, hình vẽ, điêu khắc, trình diễn…)

-         mô tả sự lạm dụng phụ nữ (nếu không tàn bạo thì cũng xuống cấp) và vì vị nễ mà chìu, rồi sau đó cứ bị ám ảnh.

-         đồi trụy: phá hoại phẩm tính tương quan tính dục, đưa tới khai thác và kinh doanh tính dục, lạm dụng tình dục trẻ em.

-         Bù trừ: nhòm lỗ khóa/nhìn chỗ kín/thích xem phim khiêu dâm, nhất là giới nam (mở đầu/tăng cường hoạt động tính dục, thủ dâm, lạm dụng trẻ em).

·        Phô bày bộ phận sinh dục của mình (cho người khác phái) để được khoái lạc tính dục bởi sự nhìn xem phản ứng của người kia.

·        Mặc y phục của người khác phái, thay thế vai kề vai với người khác phái mong ước, rồi thủ dâm để xả căng thẳng.

·        Hành động thú tính: ham muốn và thực hiện tính dục với súc vật.

·        Bạo động với chính mình (thường là phái nam) để bảo vệ độc thân: Origène; nhiều vị tử đạo sẵn lòng chịu chết để bảo vệ trinh tiết/đức tin: hai cha truyền giáo ở Lào. 

    E.III.5 Một số quan điểm  

·        Freud và William Fleiss: Thủ dâm là biểu hiệu bệnh thần kinh phổ quát, có thể có hậu quả đáng tiếc.

·        Fenichel: Thủ dâm là triệu chứng bệnh hoạn, là khả năng làm thỏa mãn bị xáo trộn.

·        Những biện pháp vô nhân đạo: Mang giây lưng thanh khiết hành xác, thiến hoạn (nam) và cắt bỏ âm vật (nữ).

·        Xã hội học và tâm lý học hiện đại: Thủ dâm là phát triển bình thường vào một thời kỳ nào đó trong đời người, dẫn tới sự chín mùi tâm lý tính dục lành mạnh; là tiền thân của ứng xử tính dục liên nhân vị.

·        Quan điểm của Giáo Hội: Trước Vaticanô: thủ dâm là điều xấu trầm trọng và là trọng tội, vì vi phạm bản tính tự nhiên và ích kỷ. Huấn thị của Bộ Giáo lý Đức Tin, “Tuyên bố về một số vấn nạn liên quan đến đạo đức tính dục”: Thủ dâm là một hành vi bóp méo và trái ngược của khả năng tính dục, là sự thiếu trưởng thành, thiếu quân bình tâm lý, và do thói quen. Thủ dâm không luôn luôn là lỗi nặng, nhưng vẫn là nguồn mặc cảm tội lỗi và lo lắng.

    E.III.6 Tiến trình phát triển lành mạnh                    

·        Trẻ khám phá hết mọi chỗ trong cơ thể nó, trong đó có vùng bộ phận sinh dục: tiến trình tăng trưởng bình thường (x. Chuyện hai bà mẹ tắm cho con: “Con gái dở quá, có một cái mà cũng làm vỡ” – “Sao con không có một cái như thằng đó?”)

·        Trò chơi sinh dục/Táy máy chân tay (do liên hệ khắng khít mẹ/con, cha/con) thiết lập ý thức về bản thân. Bé trai có ý thức nhạy bén về khả năng cương cứng đưa tới làm chủ bản thân, đụng chạm dương vật để tự trấn an.

·        Chưa trưởng thành: Thủ dâm là một hoạt động tính dục thiếu trưởng thành, nhưng trẻ dùng thủ dâm để học điều khiển bản năng tính dục của nó (chơi đùa có tính chất thăng hoa mà thủ dâm không có: “thi xịt nước”).

·        Can thiệp khôn khéo: Nếu bắt trẻ chận đứng thủ dâm cách không khôn khéo, nó sẽ có ý tưởng rằng tính dục là xấu xa và nguy hiểm, khiến trẻ có thể bị chứng loạn thần kinh chức năng và biến dạng nhân cách.

·        Can thiệp thiếu thích hợp: Những cấm kỵ thủ dâm có thể đưa tới những hình thức bệnh hoạn. Nhưng nếu thủ dâm với lương tâm xấu và lo lắng cũng đưa tới hậu quả bệnh hoạn và tội lỗi.

     E.III.7 Hướng dẫn hữu hiệu và chữa lành

·        Quan tâm thích đáng: Phải khảo sát tỉ mỉ trong một khung cảnh rộng lớn hơn, (tiểu sử gia đình, cá nhân đương sự để tìm biết những động lực sâu hơn), chứ không phải chỉ là nhục dục (bệnh cơ quan sinh dục cần chữa trị bằng y khoa; chớ gì có nữ tu bác sĩ chuyên ngành phụ khoa cho các nữ tu) 

·        Lắng nghe để hiểu: Phải lắng nghe chăm chú và nhạy cảm đối với người có những hình ảnh tưởng tượng kèm theo thủ dâm (trước và sau) 

·        Nhìn lại để thương: Thủ dâm là cách thức dễ dàng để làm dịu sức ép và căng thẳng. Do đó phải khảo sát những nguồn sức ép và căng thẳng để tiêu diệt/giảm thiểu chúng: ăn một thực đơn cân bằng, nghỉ ngơi và giải trí thích hợp.

·        Đừng vẽ đường cho hươu chạy: Những phơi bày thái quá trước những kích thích tính dục thường thúc đẩy thủ dâm. Do đó, tránh những kích thích đó sẽ giảm thiểu tính thường xuyên của thủ dâm. 

·        Tự chủ và liên đới: Tập tự chủ bản thân; mở rộng liên hệ với người khác (không chỉ qui về mình và yêu mình). Phải phát triển những tình bạn sâu xa với nhiều người nam lẫn nữ, đừng để bị sự cô lập xã hội và khó khăn trong các mối tương quan dồn ép.  

·        Tìm kiếm sự bình an: Không nên để bị tâm trạng lo lắng trầm trọng xâu xé, mà nên tìm chữa lành và bình an qua việc xưng tội. 

·        Nhìn vào lý tưởng: Từ bỏ gia đình vì Nước Trời là sự thăng hoa bản năng tính dục: hãy thành thật nhìn nhận thất bại: [Hai sức mạnh đối nghịch hằng giao chiến trong tôi khiến những điều tốt tôi muốn làm tôi lại không làm được và những điều xấu tôi không muốn làm thì tôi lại làm. Ai cứu tôi khỏi cái xác hay chết này? – Ơn Ta đủ cho con]  (x. 2 Cr 12,7-9) 

·        Trợ lực cảm thông: Tình bạn chia sẻ đem lại khuây khỏa và nâng đỡ chống lại chiến đấu bên trong và áp lực bên ngoài. Đã có chiến đấu là có chiến thắng và chiến bại. Hãy lấy thất bại làm bài học chiến thắng: thua keo này bày keo khác! [“Ai từng chiến thắng mà không hề chiến bại? Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần? Nhưng đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!”]  

·        Chia sẻ chữa trị: Thái độ mới thích hợp của việc điều trị nhóm: Những tình bạn sâu sắc khiến người ta cởi mở chia sẻ những cuộc chiến đấu, công khai nhìn nhận mình thủ dâm, nhóm không bối rối hay bình luận tiêu cực gì, là một nâng đỡ rất lớn trong việc hội nhập tính dục với tu đức, thăng tiến đời sống thiêng liêng. 

·        Trợ giúp thiêng liêng: Tính dục là một chiều kích của đời sống con người ảnh hưởng đến cuộc hành trình thiêng liêng một cách sâu xa. Những can thiệp thiêng liêng cũng ảnh hưởng trên tính dục một cách sâu xa. Sự trợ giúp thiên liêng là một hợp lực, một khí cụ hùng mạnh trong việc biến đổi sự yếu hèn và chán nản của con người: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện...”

          Do đó, phải khuyến khích chạy đến với sức mạnh của cầu nguyện, của các bí tích, của khổ chế, của việc linh hướng thường xuyên.

Xin thương bảo vệ hương thanh khiết, Sợ lúc đêm về giữa cô đơn, Lợi dụng tối tăm thần quỷ quyệt, Phóng tên ác độc giết tâm hồn. Che chở trí lòng luôn thoát khỏi, Dục tình cường bạo cứ đuổi theo, Và muôn cảm nghĩ đầy tội lỗi, Cho mảnh hồn thiêng mãi yêu kiều.

Thánh Thi Kinh Chiều Thứ Ba Tuần IV TN 

·        Ý thức cam kết ơn gọi: Chú tâm sống cam kết độc thân, rèn luyện tỉnh thức, điều độ.

·        Sức mạnh của lời cầu nguyện: Dĩ nhiên phải luôn khiêm tốn cầu nguyện. Chúa Giêsu dạy: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ, tinh thần thì nhẹ  nhàng chóng vánh, nhưng xác thịt lại nặng nề yếu đuối.” Thánh Phaolô chia sẻ: “Ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt” (2 Cr 11,29). 

·        Đồng hành tin cậy: Người trợ giúp phải tỏ ra đáng tin cậy, niềm nở đón tiếp vô điều kiện và sẵn sàng đồng hành với đương sự trong những chiến đấu của đương sự khiến đương sự cảm thấy thoải mái và tin tưởng. Có thế mới giúp hội nhập tính dục và ơn gọi độc thân.

(Slideshow Nở hoa cho cuộc đời)

  

BÀI ĐỌC THÊM 

THỦ DÂM TRẺ NÍT VÀ TUỔI DẬY THÌ  

Hiện tượng bé trai 3, 4 tuổi sờ mó cơ quan sinh dục không phải là biểu hiện phát dục sớm. Sự trưởng thành tâm sinh lý của con người là một quá trình phát triển liên tục, nên một số vùng hưng phấn trên thân thể (bộ phận sinh dục) bị đánh thức trước tuổi dậy thì.   

Trẻ mới sinh khi bú mẹ giống như quá trình hưng phấn tính dục của người lớn. Trẻ 7-8 tháng mân mê bộ phận sinh dục, làm một số động tác kẹp đùi,… Trẻ trai 3, 4 tuổi phát hiện cảm giác dễ chịu là lạ ở “chồi nụ” của mình qua một kinh nghiệm ngẫu nhiên: lúc mắc tiểu, được cha mẹ kỳ cọ làm vệ sinh khi tắm rửa, cọ xát vào quần khi đùa nghịch, đi lại,…hoặc cũng có thể do bệnh tật (phimosis - chít hẹp bao da quy đầu gây viêm nhiễm ngứa ngáy phải gãi liên tục) từ đó chợt phát hiện và khơi dậy tiềm năng hưng phấn tính dục, dẫn đến thích thú và đòi hỏi loại khoái cảm này.  

Xét về bản chất, mục đích trò chơi tính dục của trẻ là phi tính dục, vui chơi và giao hữu nhưng trong chiều sâu nội tâm không lý giải và ý thức được điều đó. Đừng áp đặt “Tabu văn hoá” của mình lên trẻ, không la mắng trách phạt trẻ, mà nên làm phong phú sinh hoạt của trẻ một cách đa dạng, thú vị:

-         hướng trẻ vào những trò chơi trí tuệ: vẽ, nặn, xếp giấy…

-         hạn chế không để trẻ bị kích thích trong môi trường dẫn đến hoạt động tính dục (trèo cây, ôm gối, ngủ chung giường với cha mẹ, anh chị...).

-         hướng dẫn một số thường thức về tính dục bình thường, dạy cách giữ vệ sinh, giúp trẻ hiểu về cơ quan sinh dục, cách tự bảo vệ mình tránh khỏi bệnh tật, những thói quen xấu, tránh bị xâm hại tình dục.  

Để giải đáp mọi thắc mắc hóc búa của trẻ về tính dục:

-   Nên có thái độ tự nhiên ôn hoà, thẳng thắn, không nói dối, không cần trả lời quá tỉ mỉ. 

-   Giải thích ngắn gọn về cơ quan sinh dục, khuyên trẻ tự bảo vệ mình như thế nào, không thể tự tiện đùa nghịch “cái ấy”.

-   Trả lời kiên quyết, rõ ràng, không nên dài dòng, liên tưởng.

-   Nên nói nhẹ nhàng, không nên mắc cỡ hoặc gây cảm giác sợ hãi hay thần bí.

Ai cũng trải qua thời kỳ “khủng hoảng” của tuổi dậy thì, những thay đổi về tâm sinh lý gây cho ta tinh thần bất an và khơi gợi trí tò mò về những điều không biết trước được. So với thế hệ trước, lớp trẻ thời nay dậy thì sớm hơn, nghĩa là độ chín về mặt sinh học giới tính đến sớm hơn. Nhưng có một điều là sự chín chắn về mặt xã hội và tâm lý lại chậm hơn so với thế hệ trước. Tuổi trẻ hôm nay dường như nông nổi hơn, tự do hơn trong việc quyết định cuộc sống của mình.  

Những nét đặc trưng tâm lý của tuổi hoa niên thì bao đời nay vẫn thế: Một số bạn gái xuất hiện kinh nguyệt từ 10-12 tuổi; một số bạn trai 12-14 tuổi đã có những giọt tinh trùng đầu tiên trong những giấc mơ (mộng tinh) hoặc do thủ dâm. Tâm trạng của người trong cuộc phụ thuộc vào hiểu biết của bản thân về hiện tượng này, nếu được đọc sách hoặc được cha mẹ thầy cô và người đi trước chỉ dẫn thì sẽ bớt lo âu, sợ hãi, chỉ còn lại sự hồi hộp.  

Các em gái lúc này vóc dáng đã mềm mại uyển chuyển hơn, làn da mịn màng hơn, đã quan tâm đến bộ ngực của mình, e thẹn khi mặc thêm chiếc áo lá hoặc chiếc nịt ngực bên trong lần áo ngoài, hơi chùng người xuống hoặc ôm cặp phía trước để che đi phần nào độ lớn của chúng. Một số em khác lại ngượng ngùng, thậm chí cảm thấy bất hạnh, khi đến tuổi này mà ngực vẫn phẳng lì “trước sau như một.” Cả hai trường hợp đều bộc lộ sự thiếu tự tin.  

Tình cảm lứa tuổi này rất dễ biến đổi, dễ xúc động và biểu hiện tính hai cực rõ rệt: các em thường tự khép kín thế giới nội tâm của mình đồng thời lại có cảm giác mình cô độc. Nếu không được giải toả tâm lý dễ dẫn đến trầm cảm. Ngoài ra xuất hiện những đặc điểm này: Tính đối kháng và tính phục tùng, tính độc lập và tính ỷ lại, tâm lý bất an, thích kết bạn, lòng tự trọng cao… Nhiều cô còn hay ghen tị với người khác hoặc mặc cảm tự ti về bản thân một cách thái quá...  

Con trai khi bước vào tuổi dậy thì cũng có một số biến đổi về cơ thể và tâm lý để dần trở nên người đàn ông trưởng thành: lông tóc mọc rậm và mau dài hơn, mọc ria mép và râu (“nam tu nữ nhũ”), cục yết hầu nổi lên ở cổ, “vỡ giọng”, mọc mụn trứng cá ở trên mặt..., tăng chiều cao và bắp thịt tạo nên dáng vẻ riêng của phái mạnh. Các cậu bắt đầu quan tâm đến nửa kia của mình và luôn sẵn sàng ra tay giúp đỡ người khác, thể hiện chí khí nam nhi của mình. Tâm tính thay đổi thất thường: hay nổi nóng, lòng tự ái cao, hay chống đôi người cùng phái (cha, anh, thầy giáo...); có bạn hay chải chuốt, ăn diện gây sự chú ý cho mọi người, có bạn lại ăn mặc xuề xoà – “bụi bụi” đến mức... phủi ra bụi - vì cho rằng chỉ có phe tóc dài mới hay đi shopping và quan tâm đến vẻ bề ngoài. Vì tâm lý bốc đồng hay nổi máu anh hùng nên các cậu dễ bị sa đà hoặc bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng. Cũng có những bạn gặp “trục trặc” trong tiến trình phát triển giới tính mà chúng ta quen gọi là những người thuộc “giới tính thứ ba” (á nam á nữ). 

E.IV. VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI

(Slideshow Dẫu con là ai) 

Nằm vắt tay lên trán ta nghĩ đến chuyện cuộc đời, ngồi bấm đốt ngón tay ta nghĩ đến chuyện ngày qua. Nằm vắt tay lên trán ta nghĩ đến chuyện bây giờ, ngồi bấm đốt ngón tay ta nghĩ đến chuyện ngày mai. 

E.IV.1 NhẬn ĐỊnh

Đồng tính luyến ái là một vấn đề ngày nay rất nhạy cảm và rất có nguy cơ xảy ra. Và do đó cũng rất có nguy cơ hiểu lầm và bị gán lầm “nhãn hiệu đồng tính luyến ái” cho những tình bạn và đôi bạn thân thiết tốt lành. Sự ngộ nhân này sẽ làm tổn hại bầu khí thanh bình, tin tưởng và an toàn của cộng đoàn giáo dục, và có thể đưa tới những hậu quả tiêu cực đáng ra không nên có. Vì thế, cả các nhà đào tạo lẫn các ứng sinh, cũng như các thành phần khác trong cộng đoàn, cần trực diện với nó và cẩn trọng xem xét thấu đáo mọi khía cạnh liên quan, ngõ hầu xây dựng và sống tốt mọi mối tương quan lành mạnh, trong bầu khí tin tưởng, an vui và hạnh phúc của các con cái Chúa. 

Theo trình thuật sáng tạo loài người trong sách Sáng Thế (St 2,18-24) và theo quan niệm Âm-Dương Á đông, người nam và người nữ hấp dẫn nhau, cần nhau, gắn bó nhau và bổ túc cho nhau, tạo một thế quân bình tự nhiên, được biểu lộ đặc biệt trong đời sống hôn nhân.  

Cuộc sống tu trì thiếu mất sự quân bình tự nhiên đó. Nếu không thiết lập được và sống trong một thế quân bình siêu nhiên trong các môi trường đồng giới nam và đồng giới nữ (bằng đời sống cầu nguyện, đời sống huynh đệ cộng đoàn, tận tụy với sứ vụ), thì sự cuốn hút đó có thể được bù trừ bởi một sự chuyển hóa tâm lý, vì trong mỗi con người đều có cả hai yếu tố nam và nữ; yếu tố này có thể trội hơn yếu tố kia tùy người. Sự chuyển hóa tâm lý này có thể đưa tới một mối tương quan thiếu quân bình hay lệch lạc trong ứng xử tình cảm và giới tính ở một số đôi bạn đồng giới, nhưng không hẳn đã là đồng tính luyến ái thực thụ, dù có thể đưa tới đồng tính luyến ái. 

Ngày nay, nền văn minh tục hóa lấy cái tôi làm trọng tâm, tôn thờ vật chất, hưởng thụ khoái lạc nhục dục, suy thoái đạo đức làm nảy sinh và gia tăng tình trạng đồng tính luyến ái. Trong bối cảnh ấy, người ta nghi ngại và lo sợ đến đỗi nhầm lẫn với cả những tình bạn thân thiết tốt lành, vốn mang lại nhiều lợi ích lớn lao trong mọi lãnh vực cuộc sống, nhất là khi có được người bạn tri âm tri kỷ, có thể nói được với nhau bất cứ điều gì hầu giúp nhau sửa chữa nên tốt.  

Tuy nhiên cũng có những tình bạn làm tha hóa cuộc đời con người. Vì thế mà có sự lo lắng trước những biểu hiện tình bạn thân thiết trong các môi trường đồng giới nam hay đồng giới nữ, khiến những người có trách nhiệm đào tạo, đánh giá và cất nhắc các ứng sinh thường lo lắng và đề phòng trước những biểu hiện tình cảm giới tính không phù hợp với đời sống linh mục và tu sĩ, đặc biệt vấn đề đồng tính luyến ái. 

Nỗi lo của các ngài là chính đáng. Chúng ta kính trọng, cảm thông chia sẻ trách nhiệm của các ngài và nhận ra động lực yêu thương của các ngài. Nhưng cách hiểu và đánh giá chính xác bản chất đồng tính luyến ái là gì? thế nào? cũng như cách thức và mức độ của các biện pháp phòng ngừa và giải quyết thì cần được quan tâm làm sáng tỏ, đưa tới hiệu quả tích cực, trong đào tạo cũng như trong cuộc sống sứ vụ ra sao?  

E.IV.2 ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI LÀ GÌ?

E.IV.2a. Hiện tượng đồng tính luyến ái trong Kinh Thánh

1) Kinh Thánh Cựu Ước.

Tính dục đồng giới hay đồng tính luyến ái không phải là điều mới lạ, nhưng đã có từ xưa vì bản tính tội lỗi của con người. Trong tiếng Anh có danh từ sodomy mô tả những hành động kết hợp tội lỗi giữa những người nam với nhau. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, thuật ngữ này phát xuất từ tên thành phố Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa. Khi Chúa sai hai thiên thần đến giải cứu gia đình ông Lót, cháu ông Ábraham, cư ngụ tại Sôđôma thì dân thành Sôđôma đã đòi có những hành động tội lỗi với hai thiên sứ mà họ nghĩ là hai người đàn ông:  

Hai sứ thần đến thành Xơ-đôm vào buổi chiều; ông Lót lúc ấy đang ngồi ở cửa thành. Vừa thấy các ngài, ông Lót đứng lên ra đón các ngài và cúi sấp mặt xuống đất. Ông nói: Thưa các ngài, kính xin các ngài ghé lại nhà tôi tớ các ngài đây để nghỉ đêm và rửa chân, rồi sớm mai các ngài tiếp tục đi đường. Họ đáp: Không! Chúng tôi sẽ nghỉ đêm ngoài đường phố. Nhưng ông nài nỉ các ngài mãi nên các ngài ghé lại và vào nhà ông. Ông làm tiệc đãi các ngài, nướng bánh không men, và các ngài đã dùng bữa. Các ngài chưa đi nằm thì dân trong thành, tức là người Xơ-đôm, bao vây nhà, từ trẻ đến già, toàn dân không trừ ai. Chúng gọi ông Lót và bảo: Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi. 

Ông Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng, rồi nói: Thưa anh em, tôi van anh em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi. Chúng đáp: Xê ra! Tên này là một ngoại kiều đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những tên kia! Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại. Còn những người đứng ngoài cửa, thì các ngài làm cho chúng ra mù, từ người nhỏ nhất đến người lớn nhất, khiến chúng không sao tìm ra cửa. Hai người khách nói với ông Lót: Ông còn ai ở đây nữa không? Con rể, con trai, con gái, và tất cả những gì ông có trong thành, hãy đưa ra khỏi nơi này. Chúng tôi sắp phá huỷ nơi này, vì tiếng kêu trách dân thành quá lớn trước nhan Đức Chúa, và Đức Chúa đã sai chúng tôi đến huỷ diệt chúng” (St 19,1-13). 

Khi con dân Chúa đi qua sa mạc vào Đất Hứa, Chúa đã ban luật lệ cho họ và một trong những điều luật đó là: Chớ ăn nằm với người nam như người ta ăn nằm với người nữ; đó là một điều quái gở. Nếu một người nam ăn nằm với một người nam khác, hay một người nữ ăn nằm với một người nữ khác, thì hai người đó hẳn phải bị xử tử, vì họ đã làm một điều gớm ghiếc; máu họ sẽ đổ lại trên mình họ: “Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm” (Lv 18,22); “Khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng” (Lv 20,13). 

2) Thánh Kinh Tân Ước,

Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi các tín hữu tại Rôma, thủ đô đế quốc Lamã lúc bấy giờ, mô tả về tình trạng tội lỗi của con người: “Họ buông theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều trái tự nhiên. Đàn ông cũng vậy, không quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà lại đem lòng thèm muốn lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình” (Rm 1, 26-27). Và Ngài cũng viết trong thư gởi cho tín hữu tại Corinthô: “Những kẻ tà dâm, thờ thần tượng, ngoại tình, đồng tính luyến ái, trộm cắp, tham lam, say sưa, chưởi rủa, cướp giật sẽ không được thừa hưởng nước Chúa” (1 Cor 6,10). 

E.IV.2b Nói rõ hơn về đồng tính luyến ái

Không nên vội vàng kết luận một người là đồng tính luyến ái, dù thấy có sự thúc đẩy và vài ứng xử có liên quan. Đồng tính luyến ái đích thực là khi hai người cùng phái có sự thu hút dai dẳng, có đáp ứng xúc cảm và ứng xử tính dục với nhau, nghĩa là người ước muốn nhục dục tìm cách thực hiện ước muốn đó bằng những hành động nhục dục với một người cùng phái. 

Nguồn gốc đồng tính luyến ái là do di truyền hay do lượng hooc-môn dị thường. Phân tâm học cho là do những xáo trộn sâu xa trong tương quan cha-mẹ-con-cái, nhất là khi một người quá ràng buộc thân thiết có sức hấp dẫn cám dỗ. Những yếu tố hoàn cảnh, tâm lý, văn hóa, xã hội, sinh học làm hiện tượng đồng tính luyến ái trở nên phức tạp.  

Người đồng tính luyến ái có sự khiêu dâm trổi vượt đối với người đồng phái khác. Nhưng người đó cũng phải đau khổ chịu đựng sự thiếu hụt trong nam tính hay nữ tính của mình. Nhưng thật đáng tiếc là đồng tính luyến ái được xã hội ngày nay chấp nhận nhiều hơn, thậm chí có một ít nước cho những đôi đồng tính luyến ái qui chế hôn nhân nữa! Dù vậy, đó vẫn là nguồn lo âu đối với nhiều người. Giáo Hội và những người có lương tri kịch liệt phản đối. 

Một người khác tính luyến ái sẽ phải đau khổ khi có thể chạm trán với người đồng tính luyến ái, nghĩa là bị cưỡng bức, lạm dụng vì những lý do thực tiễn nào đó, dù không thường xuyên. 

E.IV.2c. Thái độ đối xử tích cực

Người trợ giúp phải cẩn thận lắng nghe không kết án và đón nhận vô điều kiện, đồng thời giúp đương sự phân biệt có phải là đồng tính luyến ái đích thực hay ứng xử ấy chỉ do hoàn cảnh ép buộc hay một yếu kém đạo đức. Phải nhân ái với họ, vì họ là nạn nhân của chính hướng chiều yếu đuối của họ: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt” (Thánh Phaolô) 

E.IV.3. LẬP TRƯỜNG CỦA GIÁO HỘI  

Huấn Thị của Bộ Giáo Dục Công Giáo về những tiêu chuẩn để biện phân ơn gọi đối với những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái và việc chấp nhận họ vào Chủng Viện và lên Chức Thánh. Huấn thị này do Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI phê chuẩn ngày 31-08-2005 và ra lệnh phát hành tại Roma ngày 04-11-2005, lễ kính nhớ thánh Charles Bôrrômêô, Bổn Mạng các Chủng Viện, được ấn ký do

Đức Hồng Y ZENON GROCHOLEWSKI, Bộ Trưởng

Đức Cha J. MICHAEL MILLER, C.S.B., Thư Ký 

Cần phải có một sự biện phân kỹ càng những vấn đề liên quan đến lãnh vực tình cảm và giới tính, trong suốt thời gian đào tạo, và cả về sau nữa. Huấn thị đưa ra những quy tắc liên quan đến một vấn đề đặc biệt càng lúc càng cấp bách do tình huống hiện tại gây ra, đó là: Có được chấp nhận vào Chủng Viện và lên Chức Thánh những ứng sinh có khuynh hướng sâu nặng và ứng xử đồng tính luyến ái không? 

Ứng sinh phải luôn ý thức rằng toàn bộ đời sống phải được điều khiển bởi việc hiến dâng toàn thân, và phải đạt tới một sự trưởng thành tình cảm và tính dục. Sự trưởng thành này cho phép đương sự có được những tương quan thích đáng với cả người nam và người nữ. 

Giáo lý Công giáo phân biệt những hành động đồng tính luyến ái và những khuynh hướng đồng tính luyến ái. Và trong xu hướng đồng tính luyến ái thì cũng cần phân biệt xu hướng chớm nở có thể chữa trị được hay xu hướng đã ăn rễ sâu không thể nào gột tẩy. Truyền Thống Giáo Hội vẫn luôn xem những hành động đồng tính luyến ái là những hành động vô luân tự bản chất và ngược lại với luật tự nhiên. Vì thế, không có trường hợp nào trong những hành động này được chấp thuận.  

Những khuynh hướng đồng tính luyến ái đã bám rễ sâu mà người ta thấy nơi một số người nam cũng như nữ được xem là vô trật tự và thường là một thử thách khó vượt qua đối với những người này. Tuy nhiên, những người này phải được tiếp đón cách kính trọng và tế nhị, tránh mọi phân biệt đối xử bất công: “Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Eph 4,32). 

Giáo hội, dù vẫn kính trọng sâu xa những người này, không thể chấp nhận vào chủng viện và vào các chức thánh những người thực hành đồng tính luyến ái, hoặc có những khuynh hướng đồng tính luyến ái đã bám rễ sâu và ủng hộ cái được gọi là văn hóa đồng tính nam, vì thiếu những tương quan chính đáng với những người nam và người nữ khác. Trái lại, những khuynh hướng đồng tính luyến ái dù chỉ là biểu hiện của một vấn đề tạm thời, chẳng hạn như vấn đề của tuổi thanh niên chưa được hoàn tất, cũng phải được vượt qua ít là ba năm trước lúc truyền chức phó tế. 

Như thế, nếu mới chỉ là khuynh hướng đồng tính luyến ái và có thể chữa trị với thời gian thì không bị ngăn trở. Phải phân biệt hiện tượng và bản chất: Hiện tượng sẽ qua đi, bản chất mới khó thay đổi. Nếu một ứng sinh thực hành đồng tính luyến ái hoặc có những biểu hiện của khuynh hướng đồng tính luyến ái đã ăn rễ sâu xa, thì vị linh hướng cũng như cha giải tội của ứng sinh, có bổn phận lương tâm ngăn cản anh không tiến tới việc chịu chức. Thật là không ngay thẳng trầm trọng khi một ứng sinh nào che giấu việc đồng tính luyến ái của mình để đạt tới các chức thánh cho bằng được. Một thái độ không trung thực như thế là không phù hợp với tinh thần chân lý, tinh thần ngay thẳng và sẵn sàng phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội.  

Vì tính chất nghiêm trọng của nó, ĐTC Biển Đức XVI dạy áp dụng rộng rãi Huấn thị này: Báo L'Osservatore Romano ngày 22/5/2008 có đăng lời giải thích ngắn gọn của Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, và nói rằng Đức Giáo Hoàng đã chấp thuận cho công bố tin này ngày 8 tháng 4 năm 2008. Lời giải thích của Đức Hồng Y cho hay các hướng dẫn được trình bầy trong lá thư năm 2005 của Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo áp dụng cho “tất cả mọi trường đào tạo linh mục, kể cả các trường đặt dưới quyền điều khiển của các Giáo Hội Đông Phương, cho việc Phúc Âm hoá các Dân Tộc, và cho các Học Viện Đời Sống Tận Hiến và các Hội Dòng Đời Sống Tông Đồ.”  

E.IV.4. THÁI ĐỘ PHẢI CÓ  

Căn cứ vào những khảo sát khoa học và lập trường của Giáo Hội, chúng ta phải có cái nhìn thấu cảm và thái độ tôn trọng, tin tưởng đối với nhau, không phán đoán thiếu cơ sở và vội vàng kết luận những ai đó là đồng tính luyến ái. Dù có nghi ngờ những ai đó có biểu hiện đồng tính luyến ái cũng không được phân biệt đối xử, cô lập hay tẩy chay, không những lỗi bác ái mà lỗi cả đức công bằng. Nhất là khi điều nghi ngờ thực tế không có thì ai sẽ đền bù sự oan uổng bất công đó?!  

Phải lấy tinh thần bác ái huynh đệ mà trực tiếp trao đổi chỉ bảo (như Chúa Giêsu đã dạy), lấy tinh thần siêu nhiên mà cầu nguyện và phó thác cho Chúa định liệu, nhẫn nại chờ đợi vì cuộc sống thực mỗi ngày sẽ mạc khải đúng chân tướng con người: “Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng” (Lc 8,17). Không tìm cách xen vào cuộc đời người khác: “Tôi nghe nói trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào” (2 Tx 3, 11). 

Không ác ý theo dõi, rình mò dò xét để báo cáo bằng thư nặc danh; cũng không nhận làm ăng-ten tố cáo nhau, vì như thế sẽ tạo nên nghi ngờ thù oán nhau, làm mất bầu khí bình an, tin tưởng và thương yêu, là cái cần thiết để xây dựng cộng đoàn giáo dục: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Eph 4,29). Phải nhớ lời Chúa Giêsu bảo Phêrô: “Nếu Thầy muốn nó ở lại cho đến khi Thầy đến, việc gì đến con, con hãy cứ theo Thầy”- “Các con đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán; các con đong bằng đấu nào thì sẽ đong trả lại bằng đấu ấy cho các con.” Hãy cho người biết lỗi, cho họ cơ hội sửa lỗi, và cho họ thời gian nữa, vì không ai một sớm một chiều mà sửa ngay được. Tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai (“nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cải, thị vị vô quá”). 

Trái lại, người có trách nhiệm sẽ đích thân kiểm soát bằng sự phục vụ đầy chăm sóc và gần gũi yêu thương, vì cuộc sống mỗi ngày sẽ mạc khải đúng con người thật: “Đi lâu mới biết đường dài, ở lâu mới biết con ngài phải chăng.” Nhờ đó sẽ phát hiện kịp thời và có cách thích hợp nhất để uốn nắn, đào tạo với lòng cảm thông. Thựo tế trong Hội Thánh cho thấy “mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân hẳn còn có một tương lai.” 

Trong trường hợp biết rõ ai đó có đồng tính luyến ái thật và để tránh thiệt hại lớn cho cộng đoàn lẫn đương sự, sau khi đã trực tiếp làm mọi cách có thể, và nhất là cầu nguyện, hãy theo lương tâm, can đảm đích thân kín đáo trình bày với Bề trên và sẵn sàng chịu trách nhiệm kiểm chứng về điều mình nói. Người có thẩm quyền cũng nên kín đáo làm việc với các đương sự, không nên đưa ra công khai, sinh ra mặc cảm càng khó và tổn thương tới thanh danh của các đương sự cũng như Chủng viện. Hơn nữa cũng phải chắt lọc điều mình nghe và các hậu ý của người đến nói. 

Các đôi bạn thân thiết cũng hãy dè dặt, khôn ngoan và bác ái tránh gây cớ hiểu lầm cho người khác: không thường xuyên chỉ đi lại vui chơi tâm sự với nhau, song mở ra với mọi người; nhất là tránh những biểu lộ tình cảm quá thân mật về mặt thể lý… Nhưng cũng đừng vì sợ con mắt nhòm ngó, tỵ nạnh mà xa tránh nhau làm tổn thương tình bạn cao đẹp đã có. Mười hai tông đồ, mà Chúa Giêsu vẫn thân tín hơn với Phêrô, Giacôbê và Gioan, nhất là Gioan đó thôi, dù vẫn có vài hiểu lầm và bất bình! 

Tay Tạo Hoá đặt bầu lửa đỏ,                      

Giữa thinh không soi tỏ gian trần,                  

Con người hối hận thở than,                 

Dám đâu tiếp tục những lầm lỗi xưa. 

Vừa lạc nẻo lại vừa mù quáng,           

Chẳng biết đường biết hướng về đâu,

Chúa ôi chính lộ dẫn vào,                             

Kẻo con sa xuống vực sâu có ngày!            

Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Năm Tuần I  

Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2 Cor 1, 3-4). 

E.V. ÁP DỤNG TÂM LÝ HỌC VÀO PHÂN ĐỊNH VÀ ĐÀO TẠO ƠN GỌI

Ngày 30/10/2008, Bộ Giáo Dục Công Giáo công bố “Hướng dẫn sử dụng Tâm lý học trong Tuyển chọn và Đào tạo ứng sinh Linh mục.” Văn kiện được ĐTC Biển Đức 16 chuẩn y. Những tư tưởng chính của văn kiện là vai trò của các nhà tâm lý trong việc giúp nhận định ơn gọi; trách nhiệm của Giáo Hội khi nhận định, đánh giá xem các ứng sinh có phù hợp cho sứ vụ linh mục hay không; Đức Giám mục là người đại diện đầu tiên của Chúa Kitô trong việc đào tạo các linh mục; vai trò của người đào tạo là nhằm chuẩn bị cách tương xứng cho chức linh mục.  

Phải nhắc đến bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý các ứng sinh, có những tổn thương không thể chữa lành hoặc những khó khăn tác động đến khả năng tiến bước trên con đường huấn luyện hướng đến chức linh mục của họ, không chỉ tại thời điểm gia nhập, mà cả thời điểm trước khi thụ phong nữa; nhưng nếu phát hiện kịp thời sẽ tránh được nhiều oái ăm. 

Vì những ảnh hưởng đó và nhu cầu đào luyện con người của các ứng sinh, vấn đề sử dụng khoa học tâm lý trong chủng viện được đặt ra, với hy vọng những đóng góp của khoa tâm lý học góp phần đào tạo tâm lý cho các ứng sinh và chuẩn bị họ có một sự cân bằng nhân cách. Các trắc nghiệm tâm lý cho biết các chi tiết đáng lưu ý trong việc tuyển chọn và đào tạo ứng sinh, chúng cũng cho các ứng sinh hiểu rõ bản thân hơn, nhưng không nên chỉ dựa vào các trắc nghiệm tâm lý mà thôi.  

Do hoàn cảnh đặc biệt, các chủng viện Bắc Mỹ sử dụng các trắc nghiệm tâm lý để đánh giá xem các ứng sinh có vấn đề gì không. Các vấn đề thường được quan tâm chú ý là xem các ứng sinh có vâng lời đủ hay không, có khả năng theo đuổi ơn gọi đến cùng hay không, có cởi mở, thân thiện, và có đáng tin cậy hay không, hoặc có các khuynh hướng lệnh lạc về giới tính hay không, để giám định sự trưởng thành và khả năng sống đời khiết tịnh. Nếu phát hiện ứng sinh có vấn đề và không thể thay đổi được thì không để ứng sinh ấy trong chủng viện nữa. Vì muốn làm tất cả những gì có thể làm để tránh các vấn nạn có thể có, họ không thể bỏ qua các trắc nghiệm tâm lý này. 

Việc đào tạo nhân bản không thể tách rời với việc đào tạo thiêng liêng nên người hướng dẫn thiêng liêng có một vai trò đặc biệt. Những hình thức phân tích và hỗ trợ tâm lý không thể thay thế việc hướng dẫn thiêng liêng, vì chính đời sống thiêng liêng tạo đà tăng trưởng các đức tính của con người mà không bị sự tồn tại của tâm lý tự nhiên cản trở. Do đó phải chú trọng đến tầm quan trọng của ơn Chúa trong việc đào tạo ứng sinh. Ơn gọi linh mục là hồng ân và là mầu nhiệm vốn không thể đem so sánh với các phương pháp tâm lý. 

Việc nhờ đến chuyên gia tâm lý chỉ được sử dụng trong một số trường hợp khó khăn đặc biệt. Do đó, nhà tâm lý học không thể là một phần của đội ngũ đào tạo. Sự trợ giúp tâm lý nên được hội nhập vào việc đào tạo toàn diện của ứng sinh, và không được gây trở ngại cho các giá trị thiêng liêng không thể thay thế. Các nhà tâm lý không được tiết lộ các khía cạnh đời sống riêng tư của khách hàng với đệ tam nhân, dù là thẩm quyền tôn giáo hay chính trị của họ, mà không có sự đồng thuận hoàn toàn của họ. Cũng thế, không ai, dù là Bề trên, có thể đi vào các chi tiết tiểu sử tâm lý của ứng sinh mà không có sự đồng thuận rõ ràng của họ.  

Nhưng có hai thái cực sai lầm khi xem xét sự hỗ trợ về tâm lý đối với các ứng sinh linh mục: một là việc nhà tâm lý đóng vai trò vị linh hướng; hai là việc người đào tạo nghĩ rằng sự hỗ trợ từ các nhà tâm lý là không cần thiết đối với sự trưởng thành ơn gọi nơi những người khát khao chức linh mục. “Đối với nhà tâm lý nhắm mắt làm ngơ trước điều siêu việt, chối bỏ tầm quan trọng của đức khiết tịnh hoặc quay lưng lại đối với một số giá trị nào đó vốn thích hợp với Hội Thánh, thì rõ ràng họ chẳng thể có chỗ đứng trong việc giúp trưởng thành ơn gọi cho người hiến dâng đời mình cho sứ vụ. Nhà tâm lý nên có sự am hiểu lý thuyết và có cách tiếp cận nhằm đem chiều kích siêu việt của người ứng sinh hòa với lòng nhiệt thành và phẩm chất của họ, để tất cả những điều ấy đơm bông kết trái nơi người ứng sinh.” Giáo Hội đánh giá cao các phương pháp tâm lý và muốn chúng được sử dụng theo cách chúng có thể mang lại lợi ích. 

Hướng sử dụng tâm lý học trong việc tiếp nhận và đào luyện ứng sinh Linh mục:

Vì sự trưởng thành đầy đủ của các linh mục ngày mai


Vaticano - Thứ Năm 30 Tháng 10 năm 2008
do Bộ Giáo Dục Công Giáo trình bày

HY. Zenon Grocholewski, Tổng trưởng

TGM. Jean-Louis Brugùes, Thư ký
 

I. Hội Thánh và việc phân định ơn gọi

(1) Mọi ơn gọi đều là ân huệ đến từ Thiên Chúa, được ban ở trong HT và qua HT. HT có nhiệm vụ phân định ơn gọi và tính thích hợp của ứng sinh, vừa bảo đảm thiện ích của HT vừa bảo đảm được thiện ích của ứng sinh trong tổng thể, mà cuối cùng bởi việc Giám mục nhìn nhận đó là ơn gọi đích thực của CTT. Mọi ơn gọi được định hình để phụng sự TC và xây dựng HT hầu tăng trưởng Nước TC ở giữa trần gian. Nhà đào tạo phải thực hiện hài hòa hai thiện ích này để chúng hội tụ và hỗ tương năng động với nhau để phụng sự TC và phục vụ con người (x. PDV số 66-67). 

(2) Tác vụ đồng hình đồng dạng với CK của linh mục đòi hỏi những năng lực và nhân đức đối thần (tin, cậy, mến) cũng như luân lý (can đảm, khôn ngoan, công bằng và tiết độ), được nâng đỡ bởi sự quân bình nhân bản và tâm lý, tình cảm hầu có thể dâng hiến bản thân trong tự do của nếp sống độc thân, tương quan với mọi người (x. PDV 43-44; GL 1029; 1041,1). 

Trong tổng thể bốn chiều kích đào tạo linh mục của PDV, nếu chiều kích thiêng liêng là yếu tố quan trọng nhất, thì chiều kích nhân bản là nền tảng của việc đào luyện toàn diện (x. PDV 45c), khiến nhân cách linh mục trở thành nhịp cầu đưa người ta lại với CK, Đấng cứu độ (x. PDV 43). Các khả năng và phẩm chất nổi bật:

·        Cảm thức tích cực và ổn định về nam tính của mình trong tương quan trưởng thành với người khác;

·        Cảm thức vững chắc tính thuộc về trong hiệp thông với linh mục đoàn và cộng tác trách nhiệm với Giám mục;

·        Sự tự do phấn khởi và nhất quán trong họat động hằng ngày;

·        Can đảm lấy quyết định và trung thành với quyết định ấy;

·        Hiểu biết những năng lực và giới hạn của mình để hội nhập chúng thành một nhãn quan tích cực về bản thân, với khả năng sửa chữa bản thân;

·        Biết thưởng thức vẻ đẹp và nghệ thuật nhìn nhận chân lý;

·        Tôn trọng, tín nhiệm và đón nhận người khác;

·        Khả năng hội nhập phái tính của mình và sống bậc độc thân.

(x. OT 11; PO 3; Ratio 51; PDV 17; Sacerdotalis Coelibatus 63-64)

Những phẩm chất đó đạt được nhờ sự tương hợp của ứng sinh với hoạt động của ơn thánh nơi mình và nhờ một tiến trình đào luyện tiệm tiến, lâu dài, sinh động và cá vị hóa mà Giáo Hội cung cấp cho.

II. Chuẩn bị các nhà đào tạo

(3) Phải chuẩn bị thích đáng các nhà đào tạo để họ:

·        hiểu rõ con người, các nhịp độ tăng trưởng, các tiềm năng và sự yếu đuối của ứng sinh, cũng như cách ứng sinh sống mối tương quan với Chúa;

·        thực hiện việc phân định ơn gọi theo giáo huấn của Hội Thánh hầu an tâm quyết định thâu nhận hay thải hồi, cũng như đồng hành giúp ứng sinh thủ đắc các đức tính đối thần và luân lý trong sự nhất quán và tự do nội tâm dâng mình trọn vẹn phục vụ Hội Thánh. 

(4) Có không ít những sai lầm trong việc biện phân ơn gọi khiến có những thiếu năng lực tâm lý, mang tính bệnh lý tỏ hiện ra sau khi chịu chức linh mục. Vì thế, nhà đào tạo cần được chuẩn bị chuyên môn về tâm lý, hiểu sâu về con người và những đòi hỏi của việc đào tạo, để:

·        nhạy cảm với kỹ năng tâm lý để nhận ra những động lực thực của ứng sinh,

·        phân định được những cản trở, cân nhắc chính xác và khôn ngoan chuyện đời của ứng sinh,

·        lượng định về con người ứng sinh trong toàn thể và trong sự tăng trưởng tiệm tiến với những điểm mạnh và những điểm yếu của ứng sinh, cũng như việc ứng sinh ý thức về vấn đề của mình và khả năng ứng sinh kiểm soát cách có trách nhiệm và tự do hành xử của mình. 

III. Đóng góp của khoa tâm lý trong phân định và đào tạo

(5) Quà tặng ơn gọi của Chúa vượt quá thẩm quyền phân định của khoa tâm lý. Nhưng khoa tâm lý hữu ích để lượng định tình trạng tâm lý, khả năng tăng triển nhân bản của ứng sinh; đồng thời giúp nhà đào tạo nhận ra các triệu chứng, hành trình chữa trị, nâng đỡ sự phát triển các phẩm chất và các mối tương quan để ứng sinh đáp trả ơn gọi tốt hơn.  

Việc đào tạo phải lưu ý sự mất quân bình trong con người do đối kháng giữa lý tưởng dâng hiến và đời sống thực tiễn của ứng sinh, cũng như những khó khăn trong việc tăng triển tiệm tiến các đức tính nhân bản và các tương quan bị cản trở bởi những vết thương cá biệt trong quá khứ chưa được giải quyết. Sự trợ giúp của vị linh hướng và cha giải tội có thể giúp khắc phục với ơn Chúa.    

Ngày nay, tâm thức của nhiều ứng sinh mới gia nhập bị ghi dấu bởi chủ nghĩa tiêu thụ, sự bất ổn trong các tương quan, chủ thuyết tương đối về luân lý, nhãn quan sai lầm về phái tính, thiếu chọn lựa và phủ định có hệ thống các giá trị… Những vết thương chưa được chữa lành gây nên những rối loạn trong chính mình mà ứng sinh không nhận ra lại gán cho những nguyên nhân bên ngòai, cản trở khả năng tiến bộ trong tiến trình đào tạo. 

Trong một số trường hợp cá biệt, chuyên gia tâm lý có thể giúp ứng sinh vượt qua những vết thương ấy, nhờ phỏng vấn và trắc nghiệm [dĩ nhiên ứng sinh phải hiểu, tự do và đồng ý rõ rang trước] để nội tâm hóa lối sống của Chúa Giêsu ngày một vững vàng và sâu xa hơn. Nhà đào tạo tránh sử dụng kỹ thuật chuyên tâm lý và tâm lý bệnh học trên ứng sinh. 

(6) Ban đào tạo chọn lựa các chuyên gia tâm lý, ngòai chuyên môn nghề nghiệp, phải có một nền nhân học kitô giáo về ngôi vị nhân linh, phái tính, ơn gọi độc thân linh mục, để can thiệp của họ không gây rối loạn hay đối kháng, nhưng hội nhập với việc đào tạo luân lý và thiêng liêng, với mầu nhiệm con người trong tương quan cá nhân với Chúa, đúng với quan điểm của Hội Thánh. 

Hỗ trợ tâm lý phải hội nhập vào khung cảnh đào tạo toàn diện của ứng sinh, không cản trở việc đồng hành thiêng liêng luôn hướng ứng sinh về chân lý tác vụ thánh. Bầu khí đức tin, cầu nguyện, suy niệm, học hỏi thần học và đời sống cộng đoàn sẽ giúp ứng sinh hiểu biết ý nghĩa của việc sử dụng tâm lý vào hành trình ơn gọi của mình. 

(7) Việc sử dụng chuyên viên tâm lý phải theo Rationes Institutiois Sacerdotalis lien hệ trong sự trung thành và nhất quán với Hướng dẫn này. 

a. Sự phân định khởi đầu

(8) Ngay từ đầu, nhà đào tạo phải biết chính xác nhân cách, khuynh hướng, khả năng và tiềm năng của ứng sinh; lượng định bản chất và mức độ các vết thương, nếu có. Đừng quên hai khuynh hướng trái ngược của ứng sinh:

·        giảm nhẹ/phủ nhận những yếu đuối riêng của mình, không nói lên những khó khăn nặng nề vì sợ không được hiểu và không được chấp nhận, vun đắp kỳ vọng ít có thực về tương lai của mình.

·        thổi phồng những khó khăn, coi như ngăn trở không thể vượt qua cho hành trình ơn gọi: sự lệ thuộc tình cảm quá độ, gây hấn quá mức, thiếu khả năng trung thành với nhiệm vụ đảm nhận, không thiết lập được tương quan thanh thản, cởi mở, tín nhiệm và cộng tác huynh đệ với quyền bính, phái tính rối loạn và chưa định hình… 

Nếu nghi ngờ có bệnh lý rối loạn tâm lý thì phải chữa trị trước khi nhận vào tu. Chuyên gia tâm lý cũng giúp nhà đào tạo vạch ra hành trình đào tạo thích hợp với nhu cầu cá nhân của ứng sinh. Việc định lượng khả năng sống đặc ân độc thân không chỉ lưu ý tới việc kiêng cữ hoạt động của cơ năng sinh sản, mà còn phải xét đến định hướng phái tính: Đức Khiết tịnh vì Nước Trời còn là cái gì hơn là không có những liên hệ tính dục. 

b. Sự phân định kế tiếp

(9) Trong giai đoạn đào tạo, chuyên gia tâm lý cũng có thể giúp ứng sinh có được tốt hơn những đức tính nhân bản và luân lý, sự hiểu biết sâu xa hơn về nhân cách của chính mình, khắc phục những khủng hoảng có thể xảy ra, giảm bớt cường lực của những kháng cự tâm lý trước những yêu sách của đào tạo.

Đừng quên sự kiện một người có thể đạt được sự trưởng thành kitô và ơn gọi không luôn được chước miễn khỏi những khó khăn và căng thẳng, vẫn cần có kỷ luật nội tâm, tinh thần hy sinh, chấp nhận vất vả và thập giá, tín thác vào sự trợ giúp thiết yếu của ân sủng. 

(10) Một ứng sinh, dù có cố gắng với hỗ trợ của chuyên gia tâm lý và bệnh lý, vẫn tỏ ra không có năng lực đối diện với thực tế và thiếu trưởng thành nghiêm trọng như quá lệ thuộc tình cảm, thiếu tự do và quân bình trong các tương quan, tính tình nghiêm khắc quá độ, thiếu trung tín, căn tính phái tính không rõ rang, khuynh hướng đồng tính mạnh, khó khăn hiển nhiên và như một nghĩa vụ nặng nề trong việc sống độc thân khiết tịnh… thì phải cho thôi. 

IV. Cần có những điều tra đặc biệt và kính trọng sự riêng tư của ứng sinh

(11) Hội Thánh có quyền và bổn phận chọn và đánh giá phẩm chất, sức khoẻ thể lý và tâm lý của ứng sinh cho phù hợp với tác vụ mục tử (x. GL 1051). GL 1052 nói đến các điều kiện để Giám mục phong chức hay từ chối ứng sinh, dựa vào sự lượng giá tâm lý về nhân cách và tính thích hợp. Ứng sinh không thể áp đặt điều kiện cá nhân của mình, nhưng phải chấp nhận các điều kiện của Hội Thánh, với khiêm tốn và biết ơn. 

(12) Định chế đào tạo không được vi phạm quyền về thanh danh, về bảo mật riêng tư của ứng sinh (GL 220), nghĩa là việc tham vấn tâm lý phải được ứng sinh hiểu biết và tự do đồng ý rõ ràng trước.  

Nhà đào tạo phải bảo đảm bầu khí tín nhiệm để ứng sinh mở lòng cộng tác cách tin tưởng và thân tình vào việc phân định và đồng hành. Còn ứng sinh phải cởi mở chân thành và tín nhiệm để nhà đào tạo hiểu mình thì mới được trợ giúp hữu hiệu trong tiến trình thiêng liêng. 

Bầu khí giáo dục, cởi mở và trong sáng giữa nhà đào tạo và ứng sinh mang tính quyết định. Đừng để ứng sinh hiểu lầm rằng cho tham vấn tâm lý là mở đầu cho việc thải hồi. Ứng sinh được quyền chọn chuyên gia tâm lý do nhà đào tạo đề nghị hay được nhà đào tạo chấp nhận. 

Nhà đào tạo không áp chế ứng sinh tham vấn tâm lý và sẽ thận trọng dựa vào những gì mình biết để phân định ứng sinh, theo GL 1052,1. 

V. Tương quan giữa nhà đào tạo và chuyên gia tâm lý

a. Các người có trách nhiệm tòa ngoài

(13) Với sự đồng ý tự do bằng văn bản của ứng sinh, chuyên gia tâm lý cung cấp kết quả tham vấn cho nhà đào tạo (tòa ngoài) sử dụng để nghiên cứu một toàn cảnh về ứng sinh hầu rút ra nhũng chỉ dẫn phù hợp cho việc đào tạo hay cho chịu chức. 

Để bảo vệ sự riêng tư và thanh danh của ứng sinh, chuyên gia tâm lý chỉ cung cấp thông tin cho một mình nhà đào tạo, và nhà đào tạo bị cấm sử dụng cho mục đích khác ngoài việc phân định ơn gọi và đào tạo ứng sinh. 

b. Tính chuyên biệt của việc linh hướng

(14) Việc linh hướng thuộc lãnh vực lương tâm, các phân tích và hỗ trợ tâm lý không thể thay thế; nhưng khi cần, vị linh hướng có thể gợi ý tham vấn tâm lý để làm sáng tỏ các nghi vấn không thể giải quyết được, hầu được chắc chắn hơn trong việc phân định và đồng hành thiêng liêng, nhưng không bao giờ được áp đặt ứng sinh (x. PDV số 40c). 

Ứng sinh thông tri kết quả cho vị linh hướng, hoặc vị linh hướng lấy trực tiếp từ chuyên gia với sự đồng ý bằng văn bản của ứng sinh. Vị linh hướng rút ra những chỉ dẫn và lời khuyên thích đáng cho ứng sinh, kể cả việc nên tiếp tục hay không. 

c. Sự trợ giúp của chuyên gia đối với ứng sinh và nhà đào tạo

(15) Chuyên gia tâm lý giúp ứng sinh hiểu mình, các tiềm năng và thương tích của mình, cũng như những khó khăn và hệ lụy của chúng đối với đời sống và sứ vụ linh mục tương lai, để đối diện với lý tưởng ơn gọi bằng nhân cách riêng của mình hầu có được sự gắn bó cá nhân, tự do và ý thức vào việc tự đào tạo chính mình. 

Với sự đồng ý bằng văn bản của ứng sinh, chuyên gia tâm lý giúp nhà đào tạo hiểu loại nhân cách và những vấn đề ứng sinh đang đối diện hay phải đối diện; đồng thời cho biết những khả thể tăng trưởng nhân cách của ứng sinh, gợi ý những hình thức hỗ trợ tâm lý để nhà đào tạo giúp ứng sinh cách hữu hiệu. 

VI. Những người bị thải hồi hay tự ý bỏ tu

(16) Không được tiếp nhận người đã tự ý bỏ tu hay bị thải hồi trước khi có được những thông tin cần thiết về lý do bị thải hồi hay bỏ tu từ Giám mục hay Bề trên liên hệ (x. GL 241,3). 

Nhà đào tạo trước có bổn phận cung cấp cho nhà đào tạo mới các thông tin chính xác về ứng sinh bị thải hồi. Cần đặc biệt chú ý ứng sinh tự ý bỏ tu để tránh sự thải hồi áp đặt. 

Ứng sinh chuyển tu phải cho nhà đào tạo mới biết kết quả tham vấn tâm lý đã thực hiện trước đó. Phải có sự đồng ý bằng văn bản của ứng sinh này, nhà đào tạo mới mới được lấy thông tin từ chuyên gia đã thực hiện cuộc tham vấn ấy, kể cả ứng sinh bị thải hồi đã có qua một chữa trị tâm lý, để biết chính xác về tình trạng tâm lý của anh. 

Nếu một ứng sinh chuyển tu đã nhờ tới chuyên gia tâm lý mà không chấp nhận sự điều tra của nhà đào tạo mới thì sự phù hợp của ứng sinh phải được chứng nghiệm bằng những luận chứng tích cực theo GL 1052.

 

Kết luận

Bất cứ ai tham gia đào tạo hãy xác tín cộng tác sao cho việc phân định, đồng hành và đào tạo thiêng liêng cho các ứng sinh được thích đáng để chỉ đưa tới chức linh mục những kẻ được kêu gọi, đáp trả ý thức, tự do gắn bó và dấn than trọn vẹn cho Chúa Kitô, sống than mật với Ngài và chia sẻ sứ mệnh cứu rỗi của Ngài (x. PDV số 42c).

 

VỀ MỤC LỤC
DINH DƯỠNG Ở TUỔI GIÀ

 

Hỏi rằng có một công thức dinh dưỡng nào toàn hảo cho tuổi thọ trường sinh, thì câu trả lời là không có. Nhưng những lời khuyên thực tế sẽ là: thực phẩm phải đa dạng, phẩm chất dinh dưỡng cao và các chất dinh dưỡng phải cân bằng.  

Tại sao lại có chuyện đa dạng, cân bằng, dinh dưỡng cao?

Thưa lý do là vì ngoài các chất dinh dưỡng chung thì mỗi loại thực phẩm lại có những chất mà chỉ riêng mình mới có. Cho nên, bữa ăn cần phải có nhiều món ăn khác nhau. Chẳng hạn ta chỉ ăn thịt cá mà quên món rau tươi xanh, thì là điều thiếu sót rất đáng trách vì thịt cá không có chất xơ của rau. Mà chất xơ lại rất cần cho cơ thể.

Đa dạng nhưng không “hổ lốn”, hỗn độn, nhất bên trọng, nhất bên khinh mà cần theo một lỷ lệ đã được nghiên cứu chỉ định. Đó là sự cân bằng giữa các loại thực phẩm. Thông thường các nhà dinh dưỡng khuyến cáo nên dùng từ 45-55% chất carbohydrate từ cơm, gạo, mì, rau trái, 25-30% chất béo và phần còn lại là chất đạm thịt cá, các loại hạt.

Và món ăn phải có giá trị dinh dưỡng cao, tức là có đủ các chất mà cơ thể cần để hoạt động, để tái tạo tế bào hư hao, để trẻ thơ tăng trưởng. Các thực phẩm như đường tinh chế, rượu chỉ cho calori mà không cho chất dinh dưỡng, cho nên nếu tiêu thụ nhiều chỉ làm cho cơ thể phì lộn, béo bệu.

Dù ở tuổi già, nhưng quý lão niên vẫn cần năng lượng để làm việc, để duy trì sức khỏe tuổi cao đồng thời, nếu dinh dưỡng tốt, cũng có thể phòng tránh được một số bệnh như bệnh loãng xương, bệnh tim, bệnh cao huyết áp, thiếu hồng cầu, sa sút trí tuệ Alzheimer và vài loại ung thư. Chẳng may mà cụ nào đang mắc một vài trong các bệnh vừa kế thì dinh dưỡng đúng cách cũng khiến cho bệnh nhẹ nhàng, hồi phục mau hơn.

 Về số lượng chắc chắn là nhu cầu của quý cụ sẽ ít hơn là khi còn trung niên trai tráng, vì bây giờ đâu còn phải lao động chân tay cật lực. Do đó quý cụ vẫn cần các chất dinh dưỡng chính như mọi người. Đó là chất carbohyrat (chất bột, đường), chất dạm, chất béo, vitamin, khoáng chất và nước.

Con người, nói chung, không giống các sinh vật khác ở chỗ là ta không phải di chuyển để lùng kiếm thức ăn hay e ngại không kiếm đủ thức ăn. Mà ta lại có mối lo là làm sao không chỉ-ngồi-đó-mà-ăn hoặc ăn-quá-nhiều. Lý do là tại nhiều quốc gia, thực phẩm quá dư, chỉ muốn ăn gì và có tiền là xong. Nhưng ăn nhiều mà không vận động, tiêu dùng thì thật là nguy hiểm. 

Sau đây là một số điều cần làm để có dinh dưỡng tốt cho tuổi già:

  1- Biết lựa thức ăn thích hợp.

Tại Hoa kỳ, năm 1990 một đạo luật liên hệ tới việc liệt kê phẩm chất, thành phần của thức ăn đã được ban hành với mục đích để giới tiêu thụ dễ chọn lựa thức ăn thích hợp với nhu cầu của mình. Các quốc gia khác cũng phụ họa, làm theo.

Nhãn hiệu (Food label) đó không hoàn toàn đáng tin cậy, nhưng ít nhất cũng có giá tri hướng dẫn. Ta nên coi kỹ bảng phân tích này để lựa thức ăn thích hợp với cơ thể của mình.        

2- Khi nào thì ăn?

Tất nhiên sẽ có câu trả lời: Thấy đói là ăn. Vậy khi nào thì đói, đói bụng hay đói con mắt? Laị nữa: ăn để sống hay sống để ăn?.

Người phương Tây có thói quen: ăn bữa sáng bữa trưa nhe, bữa tối thịnh soạn. Kể ra cũng tiện, vì sáng dậy vội vã đi làm, chỉ đủ thì giờ để chiêu một ly cà phê.

Trưa ngồi ở sở vừa làm việc vừa nhai miếng bánh mì kẹp chả mới làm tối hôm qua, kèm theo quả chuối, ly coke.

 Tối về rảnh rang, làm một bữa cơm rượu no nê, rồi lên giường ngủ.

Thế là cholesterol trong máu tăng cao, những tảng mỡ không mời mà ngang nhiên xâm lấn vùng bụng, vùng hông.

Từ hơn ba chục năm trước, tại viện Đaị Học Chicago, nhà dinh dưỡng Clarence Cohln đã chứng minh rằng những người ăn một bữa no mỗi ngày thì cholesterol sẽ cao hơn những người nhâm nhi nhiều lần trong ngày. Ðây có lẽ cũng là lý do mà cholesterol ở nữ giới, lúc thiếu thời, thấp hơn ở nam giới, vì quý bà hay ăn quà vặt. Còn quý ông thì nhồi nhét một bữa cho xong.

Ăn một bữa no cũng bắt buộc sự biến hóa thực phẩm phải làm việc qúa sức, vị tố tiêu hóa, nhất là Insulin, phải tiết ra nhiều trong một thời gian qúa ngắn, đôi khi có khuyết điểm.

Tốt hơn hết là tuổi già cứ nhâm nhi, chia phần ăn ra nhiều phần nhỏ rồi ăn lai rai nhiều lần trong ngày. 

3- Hỏi rằng ăn bao nhiêu cho đủ?

Xin thưa là các cụ Á đông ta quan niệm để sống lâu chỉ nên ăn” ba phần đói, bẩy phần no”. Để còn hơi thòm thèm, sau này còn muốn ăn món đó nữa và cũng để tránh ăn quá nhiều.

Các nhà dinh dưỡng lại khoa học hơn. Họ khuyên:

- Nam giới trên 50 tuổi tiêu thụ khoảng 2000 calo nếu ít hoạt động, 2200-2400 calori nếu hoạt động vừa phải và nếu còn rất hoạt động lại cần nhiều hơn: 2400-2800 calo mỗi ngày.

Với nữ giới thì theo thứ tự như trên sẽ là 1600 calori, 1800 calori và từ 2000-2200 calori.

4- Làm sao để ăn ngon?

Ăn uống đứng đầu tứ khoái (ăn, ngủ, sinh lý, “đổng ìa”). Nhưng nhiều vị cao niên lại chẳng muốn ăn hoặc thấy món ăn nhạt tuếch, vô vị. Trở ngại này có thể là vì răng  không còn nhiều, lợi viêm sưng, nhai nuốt khó khăn, nước miếng giảm hoặc đang uống nhiều dược phẩm trị bệnh làm giảm khẩu vị; hoặc cô đơn lủi thủi ăn uống một mình.

Hãy thổ lộ với các nhà chuyên môn dinh dưỡng, y tế để cùng nhau giải quyết.

Lựa nấu món ăn ưa thích, cho thêm chút gia vị mầu mè để món ăn hấp dẫn hơn. Và cũng tìm thêm bạn để đồng thực, đồng ẩm.

5- Giới hạn thực phẩm có nhiều chất béo nhất là mỡ động vật.

Chất béo bão hòa làm tăng cholesterol trong máu. Chất béo từ thực vật, bất bão hòa, làm giảm cholesterol.

Giản dị nhất là ăn thịt nạc, thịt gà, vịt bỏ lớp da đầy mỡ; hấp hay nướng nhiều hơn là chiên; thay thịt bằng cá, rau, trái cây; uống sữa ít chất béo.  

6- Ăn thực phẩm có nhiều rau, trái cây hạt ngũ cốc

Các thực phẩm này tương đối vừa rẻ lại tốt lành và cũng có nhiều năng lượng.

Các nhà dinh dưỡng khuyên nên dùng 5 đơn vị trái cây và rau mỗi ngày, 6 tới 11 đơn vị hạt ngũ cốc. Mỗi đơn vị là lượng thức ăn mà ta thường dùng như là một bát cơm, một quả táo cỡ trung.

Nên nhớ là trên thế giới có cả hàng trăm triệu người ăn chay mà họ vẫn sống lâu. Như vậy ăn chay chắc phải có một gía trị dinh dưỡng nào đó.

 Lại nữa: phần ăn của các lực sĩ vô địch trước khi tranh giải đều có nhiều carbohydrat, là một lý do để ta tăng số lượng rau và trái cây trong bếp và trên bàn ăn của chúng ta .  

7- Một vài ý kiến về chất đạm protein

Cơ thể được cấu tạo bằng chất đạm. Chất này có nhiều nhất trong thịt động vật nhưng cũng có trong thảo mộc, nhất là các cây thuộc họ đậu như đậu hoà lan, đậu cô ve, đậu nành.

Khoa học đã chứng minh là một khẩu phần có nhiều thịt động vật làm tăng hiểm họa bệnh tim.

Do đó, tới tuổi cao, nên theo một chế độ thực phẩm với thịt nạc, sữa ít chất béo, nhiều rau, trái cây. 

8- Nước và muối cũng cần được lưu ý

Trong cơ thể, tỷ lệ nước lên đến 60% trọng lượng, mỗi ngày thận lọc gần hai trăm lít máu và thải ra1/100 dung dịch nước. Như vậy cơ thể cần có một số nước tối thiểu để tồn tại. Trung bình, cần uống 1 lít rưỡi nước mỗi ngày, và uống thêm khi nào thấy cần để tránh tình trạng khô nước hay loãng tiểu.

 Nước không có calories, không có khoáng chất, đôi khi không mất tiền mua lại còn là chất bôi- trơn (lubricant) tốt cho cơ thể.

Với muối, chỉ cần một phần tư thìa cà phê mỗi ngày là đủ. Dân chúng dùng nhiều muối, như người Nhật, thường có nhiều nguy cơ cao huyết áp. 

  9- Tăng tiêu thụ chất xơ

Gần đây, chất xơ (fiber) trong rau và trái cây được nhắc nhở tới nhiều vì có công dụng trong việc hạ thấp lượng cholesterol trong máu, tăng tốc độ di chuyển của thức ăn trong ruột, tránh táo bón và viêm ruột.

Chất xơ không có giá trị dinh dưỡng mà chỉ làm đầy bao tử, cho nên còn có tác dụng giúp ta giảm béo mập...

10- Dùng bổ sung sinh tố và khoáng chất

Các vi chất này có tác dụng xúc tác trong việc chuyển hóa thức ăn và có nhiều trong các loại thực phẩm. Tuy nhiên, ở người cao tuổi, khẩu phần nhiều khi không được cân bằng và có thể thiếu một vài loại sinh tố, khoáng chất. Vì vậy nên dùng thêm một phân lượng phụ trội.

 

Kết luận

Để sống già sống khỏe, cần có dinh dưỡng đầy đủ, cân bằng, đa dạng.

Hãy tiêu thụ nhiều loại thực phẩm khác nhau.

Hãy giới hạn các thực phẩm “rỗng”, chỉ có calori mà không có chất dinh dưỡng, như rượu, nước có hơi, bánh ngọt.

Hãy lựa thực phẩm có ít cholesterol, chất béo.

Và phòng tránh ngộ độc, tiêu chẩy với vệ sinh an toàn thực phẩm. Ăn chín, uống sôi, rau trái sạch, rửa tay thường xuyên. 

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D.  Texas-Hoa Kỳ.

 
VỀ MỤC LỤC
Tiếng Việt - Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Ngày xưa, khi điện thoại còn hiếm hoi, mỗi khi muốn liên lạc cà kê dê ngỗng với nhau, người ta thường phải viết thư. Những người tỉ mỉ còn tùy theo những tình cảm thân thương của mình đối với người mình gửi, mà chọn màu giấy và phong bì sao cho thích hợp.

Thư viết xong, được mang ra bưu điện mua thêm con tem, cũng được gọi là con…cò, rồi lè lưỡi liếm, dùng nước bọt của mình mà gián phong bì cũng như con tem. Sau đó, bỏ vào thùng và nhờ ông buu điện chuyển đi.

Chính vì thế, nghề chơi tem được phát triển. Người ta sưu tầm và trao đổi với nhau để có được những con tem càng cổ càng quí, được ghép lại sao cho đủ bộ, từ những con tem rẻ nhất đến những con tem mắc nhất.

Gã đã từng chứng kiến từng đoàn người đứng xếp hàng chờ đợi tại bưu điện Saigon, bên cạnh nhà thờ Đức Bà, để mua cho bằng được những con tem của ngày phát hành.

Không như bây giờ, bưu điện hình như cũng hạn chế việc sử dụng tem cò. Mấy cô phụ trách chỉ cần đóng dấu đánh cụp một phát trên cái phong bì và cho thư…chạy.

Thư gửi rồi, người ta được hưởng cái thú mong đợi và trông chờ, người ta đếm từng ngày cho tới khi nhận được thư hồi âm, nhất là đối với những người đang ở trong vòng xoáy của tình yêu.

Mỗi khi bác phát thư, còn được gọi là “phu trạm” đi ngang qua nhà, nếu không chặn đường để hỏi, thì cũng nhìn qua khung cửa, để xem bác ấy có ghé hay không? Nhận được thư, liền mở ra đọc ngấu nghiến, rồi mỉm cười vu vơ…

Tuy nhiên, thư gửi qua đường bưu điện thường chậm chạp và đôi khi bị thất lạc. Chẳng hạn muốn gửi một bài viết từ Việt Nam qua nước Anh,  thời gian là ba tuần, có khi một tháng, rồi lại phải trừ hao thêm một tháng nữa cho tờ báo in ấn và phát hành.

Do đó, ngay từ tháng mười, đã phải ngồi rung đùi hay bóp đầu bóp trán vận dụng trí töôûng töôïng maø vieát veà leã Giaùng Sinh, cuõng nhö veà teát taây…

Chính vì thế, khi nền văn minh điện toán bùng nổ, người ta liền xử dụng ngay chương trình điện thư để liên hệ với nhau. Từ đó, nghề chơi tem cũng như thư viết  qua đường bưu điện dần dần bị rơi vào quên lãng và dường như sắp sửa đi tới ngày tàn lụi…

Điện thư, nguyên gốc của nó là “e-mail”, được gọi một cách bình dân và nôm na là….”meo”. Cái lợi của meo là mau chóng. Viết cũng mau, vì thường ngắn gọn. Và gửi đi cũng mau, vì chỉ trong đôi ba phút, hàng trăm người bên kia bờ đại dương, cách nhau nửa vòng trái đất, đều nhận được ngay. Hơn nữa giá cả lại rẻ mạt, so với số tiền phải bỏ ra để mua tem, mua cò. Còn về chuyện bị thất lạc, đôi khi cũng có, nhưng không nhiều lắm.

Tuy nhiên, khi sử dụng meo, nhiều lúc cũng điên cái đầu và nhiều lúc cũng cười ra nước mắt, bởi vì ngôn ngữ của meo, nhất là vào cái thuở ban đầu, thường không có dấu.

Trước hết là về tên thường dùng.

Một anh bạn gã hiện đang sinh sống tại Mỹ, có tên là Dương Minh Cư. Vì thế, anh ta dùng cái tên cúng cơm cha mẹ đã đặt, để tạo cho minh cái địa chỉ meo.

Đầu tiên anh ta dùng :

- cuminhduong@...

Bị bạn bè phê bình và cho là tục, anh ta bèn đổi thành :

- minhduongcu@...

Rồi sau lại dùng : 

- duongcuminh@...

Thấy anh ta cứ loay hoay mãi với ba chữ ấy, mà vẫn không thoát khỏi cái vòng…tục lụy. Cuối cùng gã bèn phải đề nghị với anh ta bỏ quách cái tên cúng cơm ấy đi, mà chọn một cái tên khác thanh tao hơn, bằng không thì với ba chữ đó mà không đánh dấu, thì dù có ghép ngược cũng như ghép xuôi, ghép từ trong ra cũng như ghép từ ngoài vào, thì tục cũng vẫn cứ hoàn tục mà thôi. Làm cớ cho bàn dân thiên hạ nghĩ tầm…bậy, bởi vì nào có ai chịu khó nghĩ tầm…phải đâu. Và anh ta đã làm theo ý kiến của gã.

Tiếp đến là về nội dung.

Cũng vì không có dấu nên nhiều lúc gã đã phải cau mày nhăn mặt mà vẫn chẳng đoán ra ý người gửi muốn viết. Tệ hơn nữa, có lúc còn đoán sai, đoán trật ý của tác giả, thành thử ông nói gà thì bà lại cứ hiểu là vịt, trống đánh xuôi mà kèn thì lại cứ thổi ngược. Đến khi hiểu được đúng, thì chỉ còn nước ôm bụng mà cười với nhau.

Chẳng hạn hai chữ “can cau”, phải tùy trường hợp để tìm ý nghĩa, bởi vì hai chữ ấy có thể được hiểu là : can cậu, cản cậu, cắn câu, cắn cấu, cần câu, hay cần cẩu…

Cũng vậy, hai chữ “thuong lam” phải dựa vào văn mạch, mà xác định điều người viết muốn nói, bởi vì hai chữ ấy có thể được hiểu là : Thương lắm, thương lầm, thường lắm, thường lầm, thường làm, thưởng lầm…

Tiếng Việt mình nhiêu khê là vậy, mà cũng tuyệt vời là vậy.

Hồi trước năm 1975, nhiều khi gã cảm thấy bực bội khi đọc sách, nhất là những sách viết về triết học, xã hội và kinh tế, bởi vì các tác giả hay các dịch giả dùng quá nhiều tiếng Tàu, nên câu văn tối nghĩa, chẳng hiểu được gì cả.

Tiếng Việt mình rất phong phú khi diễn tả những sự vật cụ thể, nhưng lại hơi bị nghèo khi diễn tả những ý niệm trừu tượng, thành thử phải vay mượn tiếng Tàu. Đó cũng chỉ  là chuyện bình thường.

Tuy nhiên, thái quá bất cập. Từ chỗ sử dụng đến chỗ lạm dụng lại là điều không bình thường và không ổn tí nào cả.

Sau năm 1975, gã đã khấp khởi mừng thầm và hy vọng một luồng gió mới sẽ thổi vào lãnh vực ngôn ngữ. Ít nữa là trong việc vay mượn tiếng Tàu.

Thực vậy, khi nghe thiên hạ dùng :

- Máy bay lên thẳng thay vì máy bay trực thăng.

- Báo tường thay vì bích báo.

- Lính thủy đánh bộ thay vì thủy quân lục chiến.

- Tàu sân bay thay vì hàng không mẫu hạm…

- Hội Chữ Thập Đỏ thay vì hội Hồng Thập Tự.

Gã đã gật gù đắc ý và thầm bảo :

- Phải thế chứ.

Có một tên bạn cùng quan điểm đã nói với gã :

- Ông nên nhớ : Miền Bắc là đất làm văn học, miền Trung là đất làm chính trị và miền Nam là đất làm văn nghệ văn gừng, ca cải lương mới có mùi.

Dĩ nhiên lời phát biểu của tên bạn này cũng chỉ đúng trong một góc độ nào đó mà thôi.

Hơn thế nữa, nhà nước luôn kêu gọi phải cố gắng làm cho tiếng Việt mình được “trong sáng”. Ấy vậy, nên gã có đủ lý do để mà hy vọng và…khấp khởi mừng thầm.

Thế nhưng, chỉ sau một thời gian rất ngắn, gã bỗng cảm thấy thất vọng.

Thất vọng vì việc dùng tiếng ta một cách thô thiển :

Có lần đi bộ trên đường Hồng Thập Tự (cũ), khi ngang qua bệnh viện Từ Dũ, bất chợt ngước lên lầu, gã thấy một tấm bảng với hai chữ được viết bằng màu đỏ : XƯỞNG  ĐẺ. Gã đã rụng rời cả tay chân và thở dài đánh thượt một cái.

Thất vọng vì việc dùng tiếng Tàu một cách bừa bãi :

Có một thời, các ông cán bộ hễ mở miệng ra là phát biểu : Nhất trí, đồng ý, đăng ký, quản lý….khẩn trương!!!

Thất vọng vì việc dùng tiếng Tây một cách không cần thiết.

Cho tới hôm nay vẫn còn đó những chữ như : cái lô-gích, cái mô-típ, binh chủng Tăng-Thiết giáp, căng-tin…

Thất vọng vì việc đặt câu đặt cú và sử dụng từ ngữ một cách tùy tiện, vô tội vạ :

Có lần đi qua quầy hàng bán thịt, gã thấy một bảng hiệu viết như sau : CỬA HÀNG THỊT PHỤ NỮ, thì ra đây là cửa hàng bán thịt do các chị em phụ nữ đảm trách.

Mới đây thôi, khi đi tham quan khu du lịch Tức Dụp, thuộc tỉnh An Giang, gã thấy có một cái hang, muốn vô thì phải chui. Và cái hang ấy được gọi là : CƠ QUAN PHỤ NỮ. Thấy vậy, gã đành phải…bó tay mà thôi…

Gã không phải là một nhà chuyên môn về ngôn ngữ, nhưng cũng vẫn cảm thấy lãnh vực này thật là rắc rối và còn nhiều việc cần phải làm ngay.

Có lần gã được tham dự một phiên họp bàn về cách viết những tên riêng nước ngoài.

Người thì chủ trương tên họ như thế nào thì cứ để nguyên như vậy. Thế nhưng, đối với những nước không dùng mẫu tự La Tinh, như Do Thái, Ấn  Độ thì sao ?

Người thì chủ trương phiên âm, rồi viết bằng mẫu tự La Tinh và dùng gạch nối giữa những âm đó. Thí dụ : Phi-đen Cát-tờ-rô. Kiểu này thì người bình dân dễ đọc, nhưng  người hiểu biết một tí, lắm khi lại chẳng rõ nhân vật được phiên âm là ai.

Cuối cùng, mạnh ai người đó viết, không cần theo một quy luật, một thể thức hay một chuẩn mực chung nào cả.

Hơn thế nữa, vì chưa có “Hàn Lâm Viện”, nên nhiều chuyện vẫn còn bỏ ngỏ. Không ai đủ thẩm quyền để ø giải quyết.

Chẳng hạn về cách đánh vần, thí dụ chữ XEM.

Ngày xưa thì người ta đánh vần :

- Ich xì, e xe, m mờ xem.

Còn bây giờ người ta đánh vần :

- e, m, em. Xờ em xem.

Chẳng hạn về ý nghĩa, thí dụ chữ “mạc khải”, hay “mặc khải” trong ngôn ngữ nhà đạo. Mỗi người đều đưa ra lập trường của mình, thành thử đành phải bỏ lửng, ai muốn xài chữ nào thì xài. Không gì quí hơn độc lập và tự do!

Trong khi ngồi viết bài này, gã vẫn còn ấm ức và tức anh ách về một vài cái tật thiên hạ ưa dùng trong tiếng Việt.

Cái tật thứ nhất, đó là ưa xài tiếng nước ngoài.

Chẳng phải vì đã gia nhập WTO, hay chạy theo toàn cầu hóa, mà bây giờ mới xuất hiện cái tật này. Trái lại, khuynh hướng “trọng ngoại kinh nội” dường như đã ăn sâu vào máu huyết và tim óc của người Việt Nam.

Này nhé, hàng ngoại thì được ưa chuộng hơn hàng nội. Rượu ngoại thì ngon hơn rượu nội. Tiền ngoại, như đô la, Ê-rô, và nhất là đồng bảng Anh, thì  bao giờ cũng có giá hơn đồng Việt Nam. Ấy là gã chưa nói tới một thứ “ngoại đặc biệt”, đó là họ ngoại, xem chừng lúc nào dễ thương hơn họ nội.

Cũng vì thế, ngày xưa người ta ưa dùng tiếng Pháp, còn ngày nay người ta ưa dùng tiếng Ăng Lê. Trên đường phố Sàigòn, chỗ nào cũng thấy những bảng hiệu bằng tiếng Ăng Lê.

Mấy tay đại gia mới phất lên, chẳng biết công ty hay xí nghiệp của họ to cỡ nào, nhưng thiệp họ in cũng toàn tiếng Ăng Lê. Thiên hạ nhìn vào, chẳng hiểu mô tê ất giáp chi cả, nhưng cũng vẫn phải tâm phục khẩu phục.

Dân thành phố hay những đại gia mới phất lên, dùng tiếng Ăng Lê, thì còn châm chước được phần nào, chứ mấy hãng chuyên môn sản xuất thuốc chống rầy, thuốc trừ sâu bán cho nông dân, mà cũng xài toàn tiếng Ăng Lê, thì thật là quá đáng.

Đối với dân Hai Lúa, cái chữ như hạt gạo cắn đôi, chẳng biết có được nửa hạt hay không, thì làm sao mà hiểu nổi. Thế nhưng, những người sản xuất lại nghĩ rằng :

- Phải xài tiếng Ăng Lê thì mới oai và mới bảo đảm được chất lượng cao.

Cái tật thứ hai là ghép chữ.

Trong thời buổi chiến tranh, có lẽ vì không đủ người quản lý, nên nhà nước lúc bấy giờ, thường dồn các tỉnh lại với nhau.

Chẳng hạn Hà Nam Ninh, bao gồm Hà Đông, Nam Định và Ninh Bình. Bình Trị Thiên, bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, Châu Kiên Long, bao gồm Châu Đốc, Kiên Giang và Long Xuyên…Thế nhưng, hiện nay, hầu như các tỉnh đều đã trở về với đơn vị gốc của mình.

Cũng vì chuyện ghép các địa danh trên, mà thiên hạ đã…phệu ra mẩu chuyện tiếu lâm, khi các quan muốn gom ba tỉnh Kon-tum, Plei-ku và Đắc-lắc lại làm một.  Gã xin sì tốp và miễn bàn thêm.

Sau cùng là cái tật viết tắt.

Ngày xưa, trong những lúc trà dư tửu hậu, thiên hạ thường hay tán hươu tán vượn, thậm chí còn…mần cả thơ về tên các loại thuốc lá.

Chẳng hạn SALEM, đọc xuôi thì có nghĩa :

- Sao Áo Len Em Mỏng.

Còn đọc ngược, thì có nghĩa :

- Mắt Em Là Ánh Sao.

CAPSTAN, thì có nghĩa :

- Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát.

PALL MALL, thì có nghĩa :

- Phai Anh Là Lính, Mời Anh Lên Lầu.

Còn nhiều nữa, nhưng gã quên mất hết rồi. Hiện giờ, người ta cũng hay dùng những chữ cái đầu tiên để đặt cho thương hiệu của mình.

Trong một bài báo mới đây bàn về phong trào xơi tiết canh lòng lợn, để có số đỏ và lấy hên cho công việc, người ta đã nói đến những nhà hàng, những quán ăn nổi tiếng tại Sàigòn về món “lolotica”.

Cũng có công ti chuyên mua và bán hột vịt lộn đã tự đặt tên cho mình là “Hovilo”.

Vào thời buổi khó khăn, gã cũng tập tễnh nuôi heo. Việc đầu tiên gã nghĩ tới để heo mau lớn là xổ giun sán. Vì nếu thực phẩm vừa vào đến ruột, đã bị bọn giun sán thi nhau bèn xơi trước, thì đâu còn gì cho con heo phát triển.

Gã bèn hỏi những “chuyên viên chuồng trại” xem thuồc nào hiệu nghiệm hơn cả. Họ bảo :

- Cứ ra tiệm thú y mà mua, rồi quất cho mỗi con một liều TGS là xong ngay.

Gã ngẫm nghĩ không biết TGS là thuốc tì mà…linh quá vậy. Mãi tới khi cầm những gói thuốc trong tay, gã mới ngộ ra :

- TGS là trị giun sán ấy mà.

Cách đây khá lâu, để tẩy trừ nạn cướp bóc xảy ra hằng ngày, nhất là vào những lúc đêm hôm khuya khoắt, ngành cảnh sát công an đã thành lập ra một lực lượng đặc biệt, mang tên gọi là SBC, nghĩa là Săn Bắt Cướp.

Còn cách đây không lâu, báo Công An Thành Phố có một bài viết mang tựa đề “Theo chân tổ SĐB”. Chỉ mới liếc qua cái tựa đề này mà thôi, gã đã phải bỏ ra cả phút đồng hồ để suy nghĩ xem SĐB nghĩa là gì. Tức anh ách vì đầu óc gã tối tăm không đoán ra nổi. Khi đọc bài viết thì mới à lên một phát và rất lấy làm thú vị :

-  SĐB có nghĩa là “Săn Đái Bậy”

Số là thành phố Sàigòn hiện đang phát động phong trào “Vì cuộc sống văn minh đô thị” và để cho khuôn mặt Sàigòn được văn minh và dễ thương, đúng với truyền thống của “Hòn ngọc Viễn Đông” , người dân cần phải giữ gìn vệ sinh công cộng và trật tự giao thông…Trong việc giữ gìn vệ sinh công cộng, ngoài việc không được xả rác bừa bãi, còn có việc cấm…đái bậy.

Vì thế, người ta đã thành lập tổ  SĐB, trực thuộc Đội Quản lý Đô thị, để chuyên môn săn lùng những kẻ “trút bầu tâm sự” ở gốc cây, ở công viên, ở tường vách…nghĩa là trút ở những nơi không được phép trút.

Chỉ riêng quận 1, quận trung tâm thành phố mà thôi, nguyên trong năm 2007 đã lập được một thành tích đáng nể :

Mức phạt cho mỗi lần đái bậy ngoài đường là 80.000 đồng. Nếu tái phạm sẽ bị phạt 100.000 đồng. Trong năm 2007, Đội Quản lý Đô thị quận 1 đã xử lý 2.045 trường hợp liên quan đến vệ sinh môi trường, trong đó hành vi đái bậy nơi công cộng cũng không phải là ít.

Chẳng biết có nước nào trên thế giới có được một cái tổ đặc biệt như tổ SĐB của Việt Nam không nhỉ ?

Gã cảm thấy buồn thấm thía. Bao giờ mới không còn hổ thẹn để hát to cho cả thế giới cùng nghe :

- Sàigòn đẹp lắm, Sàigòn ơi, Sàigòn ơi!!!

Gã Siêu   gasieu@gmail.com

 

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************