[BẢN THẢO]
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG MỘT
LINH MỤC GIÁO PHẬN TƯƠNG LAI
sỐng TỐT đỜi SỐNG đỘc thân LINH MỤC
TRONG BỐI CẢNH GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
(tiếp theo)
G. ỨNG SINH GIÚP NHAU TỰ ĐÀO TẠO CHÍNH MÌNH
G.I.
Tính QuyẾt đỊnh cỦa TỰ
Đào TẠo
Việc
đào tạo sẽ mất đi hiệu quả của nó, nếu nó không bao hàm sự tham gia cá nhân của
ứng sinh, nghĩa là sự tự đào tạo của anh. Chính vì thế, Đức Gioan Phaolo II đã
nhắc nhở rằng chính ứng sinh là nhân tố cần thiết và không thể thay thế được
trong việc đào tạo của chính mình: “Tự đào tạo là tối quan trọng trong tất cả
mọi công cuộc đào tạo, kể cả đào tạo linh mục. Không ai có thể thay thế chúng ta
trong sự tự do có trách nhiệm mà chúng ta có được như là những nhân vị độc đáo”
Vâng, tự đào tạo là yếu tố quyết định đưa tới thành công trong việc đào tạo
thiêng liêng. Mặc dù Chúa Thánh Thần là tác nhân tuyệt hảo trong việc đào tạo
này, ứng sinh phải hoàn toàn tự do đón nhận tác động định hình Ngài.
Cũng
thế, hoạt động của các nhà đào tạo khác nhau sẽ chỉ “trở nên thực sự và đầy đủ
hiệu quả, nếu ứng sinh cống hiến sự cộng tác chân thành và xác tín của chính anh
vào công cuộc đào tạo này.”
Quan
niệm Á Châu “không thầy đố mầy làm nên” ngày nay đã được thay đổi: nếu không có
sự thực hành của trò thì những giáo điều và lý thuyết của thầy chỉ là những lời
hoa mỹ thôi. Học phải đi đôi với Hành.
Điều
rất quan trọng là việc đào tạo phải cung cấp cho ứng sinh cách suy nghĩ mới,
cách sống mới, cách hành động mới, cách yêu thương mới và cách làm chứng mới cho
Tin Mừng. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là việc tự đào tạo này phải đem sự
hiểu biết hữu ích đó ra thực hiện. Sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phía, đào tạo
và tự đào tạo, là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công, và dĩ nhiên với ơn
Chúa nữa.
Vì
thế, Pastores Dabo Vobis đòi hỏi: “Các ứng sinh... phải hết sức ý thức chuẩn bị
chính mình để đón nhận ơn Chúa và đem ra thực hành, biết rằng Giáo Hội và thế
giới đang rất cần đến họ”
G.II. CỘng Đoàn Giáo DỤc
“Việc
đào tạo linh mục được hiệu quả nhất ở trong cộng đoàn, được hiểu như một mạng
lưới hữu cơ của mối tương quan liên nhân vị.”
Vì thế, chủng viện phải được quan niệm như một cộng đoàn giáo dục,
nơi mà chủng sinh được hướng dẫn “không chỉ tới chức linh mục, song còn khám phá
và sống đời sống của Chúa Giêsu.”
Cộng
đoàn giáo dục này gắn liền với việc thực thi tập thể trách nhiệm của các nhà đào
tạo trước tiên. Nó cũng mời gọi các chủng sinh đảm nhận trách nhiệm hàng đầu của
việc đào tạo chính họ, và cộng tác vào việc đào tạo các bạn của họ, nhờ đời sống
chung của chủng viện. Yếu tố căn bản của việc đào tạo linh mục là kiến tạo bầu
khí kiên định, trước sau như một, thích hợp cho việc phát triển tâm lý và thiêng
liêng. Sự thật và tính đơn sơ trong mối tương quan dẫn đến việc chỉ bảo lẫn
nhau, chấp nhận lẫn nhau, ý thức chung về lợi ích chung và niềm vui chung trong
việc tìm kiếm và phục vụ Chúa.
Những
nhóm nhỏ cống hiến nhiều cơ hội chia sẻ đức tin, kiểm điểm đời sống và kinh
nghiệm cầu nguyện sẽ góp phần làm phát triển cộng đoàn giáo dục ấy. Cộng đoàn
giáo dục này cũng mở ra với các cơ chế cộng đoàn của Giáo Hội địa phương, nơi mà
các ứng sinh sẽ lãnh nhận được kinh nghiệm mục vụ phục vụ đoàn chiên Chúa. Những
kinh nghiệm về Giáo Hội này lớn hơn kinh nghiệm mà cộng đoàn chủng viện cống
hiến cho họ. Các kinh nghiệm ấy sẽ đào tạo ý thức mục vụ và tinh thần tông đồ
của chủng sinh, đồng thời giúp họ khám phá ra cách cụ thể tính cấp bách của việc
loan báo Tin Mừng, ý nghĩa và những đòi hỏi của cuộc đời họ, được trọn vẹn hiến
dâng cho việc phục vụ Dân Chúa. Nhưng những kinh nghiệm ấy chỉ sinh hoa kết quả
nhờ một suy tư thần học và tu đức được các nhà đào tạo tốt gợi lên và hướng dẫn.
G.III.
Nhóm NhỎ Các BẠn ĐỒng Môn
Ngày
nay người ta nhấn mạnh nhiều đến tính năng động của nhóm đào tạo. Dưới Ban Giám
Đốc, một Ban Đại Diện, được anh em bạn bầu lên, tham gia vào việc điều hành
chủng viện. Cộng đoàn chủng viện được phân chia thành nhiều nhóm nhỏ, nhằm thăng
tiến việc làm việc nhóm và đời sống cộng đoàn.
Các
nhóm nhỏ chủng sinh được hình thành theo các trình độ khác nhau hoặc theo năm
đào tạo. Một người trong ban đào tạo được chỉ định làm linh hoạt viên của nhóm,
để duy trì thế quân bình giữa đời sống cấp nhóm và đời sống cấp chủng viện. Phải
nhắm đến cả hai, các cá nhân và nhóm, như một toàn thể, ngõ hầu bảo đảm được sự
trưởng thành của cả hai, cá nhân và tập thể.
Đời
sống trong nhóm gồm có những lúc cầu nguyện, gặp gỡ hàng tuần về một đề tài
thuộc đời sống thiêng liêng (chia sẻ đức tin), những giờ giải trí, các hoạt động
mục vụ, trách nhiệm phụng vụ và các dịch vụ hàng ngày. “Sự tương tác trong những
nhóm như thế giúp phát triển sự tin tưởng lẫn nhau, truyền thông và chia sẻ, góp
phần xây dựng một cộng đoàn đúng nghĩa.”
Nhóm
nhỏ này có thể trở thành một nhóm bạn thân có thể dễ dàng thực hành việc “chỉ
bảo huynh đệ.”
Thường người ta không dám sửa lỗi người khác, phần vì con người ai cũng yếu đuối
và bất toàn, phần vì tế nhị hay sợ phản ứng tiêu cực từ phía người kia, hay ít
nhất để tránh hiểu lầm nhau, mâu thuẫn và xung đột có thể có. Vậy, cách tốt hơn
và dễ hơn là mọi người đồng ý thỏa thuận với nhau rằng “nếu một người trong nhóm
thấy người khác có lỗi, thì người này sẽ nói với người đó về lỗi ấy.”
Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ hàng tuần chia sẻ Phúc Âm và kiểm điểm đời sống, mỗi
người có thể góp ý phản hồi cho người khác và giúp nhau tiến bộ hơn trong tiến
trình đào tạo chủng viện và tự đào tạo, hy vọng tiến tới “tình huynh đệ bí tích”
của chức linh mục (x. Tv 133,1). Tiến trình này đòi hỏi phải có ý ngay lành, sự
sẵn sàng để thay đổi, lòng can đảm, tình bác ái, và nhất là ơn Chúa.
Trong cấp độ đời sống nhóm này, mỗi người phải học biết chăm chú lắng nghe và
cho người khác ý kiến phản hồi cách thích hợp. Mỗi người cũng phải học biết chấp
nhận chính mình và chấp nhận người khác: càng biết nhìn nhận lỗi lầm, thiếu sót,
giới hạn, yếu đuối và bất lực của mình, ta càng trở nên khiêm tốn hơn; càng biết
chấp nhận những lỗi lầm, thiếu sót, giới hạn, yếu đuối và bất lực của người
khác, ta càng trở nên độ lượng và cảm thông hơn với họ.
Đời
sống nhóm giúp mỗi thành viên khám phá và phát triển những tài năng, tài năng tự
nhiên và tài năng đạt được từ kinh nghiệm cuộc sống. Mọi người đều được Thiên
Chúa kêu gọi và trao cho một số ân huệ để mở rộng Nước Thiên Chúa. Mỗi người có
trách nhiệm tìm biết và phát triển những ân huệ ấy. Chẳng ai sở hữu được mọi ân
huệ của Thiên Chúa, nhưng những ân huệ cần thiết cho sứ mạng luôn hiện diện
trong cộng đoàn, và cộng đoàn là nơi cần thiết để nhận ra các ân huệ của mỗi
thành viên (x. 1 Cr 12-14).
Tuy
nhiên, nhiều khi người ta phải chịu đựng những khó khăn và xung đột do ý niệm
sai lầm hoặc đặt không đúng chỗ đức khiêm nhường, sợ hãi, ghen tị hay thèm muốn
ân huệ của người khác (x. Gal 5,26). Nếu biết chú ý tới những khác biệt của tha
nhân, đánh giá sự độc đáo của người khác với sự hiểu biết tích cực, coi những
xung đột chỉ là một phần cần thiết trong tiến trình sáng tạo và phát triển, chứ
không phải là vấn đề, thì mọi sự sẽ được giải quyết, cộng đoàn sẽ tiến triển tốt
đẹp, và sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh sẽ được hiệu quả hơn (Gal 6,2).
G.IV. KỸ THUẬT CHỈ BẢO HUYNH ĐỆ
G.IV.1 Định nghĩa
Nói
hành nói xấu là Tốt hay Xấu? Và nói hành nói xấu là gì? – Nói hành nói xấu là
nói điều tiêu cực của một người với những người khác sau lưng người ấy (có thể
là Bề trên hay anh em...). Như vậy, nhìn chung, nói hành nói xấu là
xấu.
Vậy
tại sao ta lại nói? Đâu là động lực sâu xa của nói hành nói xấu? Và là xấu hay
tốt? Nếu nói để hãm hại, hạ uy tín, trù dập người ta thì động lực sâu xa của nói
hành nói xấu là xấu. Còn nếu vì muốn cho người ấy trở nên tốt, thì động lực sâu
xa của nó là tốt. Quả vậy, nếu người ấy tốt rồi thì ai nói làm gì!
Vậy làm sao để phát huy động lực tốt đó? Chúa Giêsu dạy thực hành việc
chỉ bảo huynh đệ: “Nếu anh em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó,
riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người anh em. Nếu
nó không nghe ngươi, ngươi hãy kèm theo một/hai người nữa, để tất cả công việc
được đoán định do miệng hai/ba nhân chứng. Nếu nó không màng nghe họ, hãy thưa
với cộng đoàn…” (x. Mt.18, 15-17)
Để thực hiện lời dạy chỉ bảo huynh đệ của Chúa Giêsu, chúng ta sử dụng
kỸ thuẬt chỈ bẢo huynh đỆ
Feed-Back: Feed-Back là một kỹ thuật cảm thông và giao tế, có nghĩa chuyên môn
là “gửi trả lại” [một người xin kẻ khác nhận xét về mình, người kia cho nhận
xét, và người xin trả lời lại về nhận xét đó]. Có thể áp dụng vào Đào tạo và Tự
đào tạo, cả về chiều dọc lẫn chiều ngang (x. Phê và tự phê): Người và ta, trên
và dưới gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc đều được
giải quyết dễ dàng và tốt đẹp.
Khi
chỉ bảo huynh đệ, mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện sứ mệnh hòa giải của Chúa
Giêsu: “Đức Kitô đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù
ghét, đã huỷ bỏ Luật cũ… Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất
nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải
với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất… Người đã đến loan Tin Mừng bình an…
nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến
cùng Chúa Cha” (Eph 2,14-18)
Cuộc
đời mỗi người có bốn ô không đều (x. Hai cái bị ăn mày):
·
Phần
mù là ô chỉ người khác biết về ta những điều mà ta không biết hay ý thức được.
·
Phần
che đậy là ô chỉ ta ý thức và biết về mình, còn người khác không biết được.
·
Phần
hiển nhiên là ô người khác biết về ta, và ta cũng biết và ý thức được.
·
Phần
vô thức, bí mật và huyền nhiệm là ô người khác không biết về ta, mà ta cũng
chẳng ý thức được.
G.IV.2 Cho
và Nhận Feed-Back
Khi được ta
xin, người khác sẽ nói cho ta biết phần mù của ta, và ta sẽ trả lời lại, giải
thích cho họ về điều họ nói, đồng thời nói cho họ biết phần còn che đậy của ta.
Như thế, người và ta sẽ dần dần thu hẹp lại phần mù lẫn phần che đậy, và khai mở
biên giới của phần hiển nhiên, để rồi cả đôi bên hiểu biết nhau hơn, cảm thông,
tín nhiệm, thân nhau, thương nhau hơn và cộng tác tích cực với nhau hơn.
Nhờ cho và
nhận Feed-Back, người thêm hiểu ta và ta thêm hiểu mình, cả đôi bên sẽ giúp nhau
khám phá và gọi ra ánh sáng được phần nào cõi vô thức, bí mật và huyền nhiệm của
cuộc đời, làm ta và bạn ta ngày càng thêm phong phú, dù chỉ thấy và biết một
cách mơ hồ, khuy khuyết mà thôi (x. 1Cr 13:12).
Nhưng muốn cho
và nhận Feed-Back như thế không phải dễ làm đâu. Nó đòi hỏi một số điều kiện kỹ
thuật, về phía người cho cũng như về phía người nhận, mà cần nhất là tinh thần
chân thật tin nhau: “Nhìn vào mặt nhau đi và hãy nói với nhau thực tình như
chưa bao giờ, còn ngần ngại nhau chi mà không nói với nhau lời tha thiết trong
tâm hồn? Bao nhiêu năm mệt nhòa, mình tìm mà tìm không ra, thế nhưng ai ngờ
thành bại tùy ta” (Lời trần tình).
G.IV.2a Tám
điều kiện của người cho Feed-Back:
1.
Đợi cho
người nghe phải sẵn sàng đã.
2.
Mô tả
một hành vi như quay một cuốn phim, không phê phán.
3.
Việc xảy
ra không lâu, để người đó còn nhớ rõ hầu kiểm chứng.
4.
Nói
những điều người kia vô tình không ý thức được. Và chỉ nói điều ta thấy, ta nghĩ,
chứ không phải điều kẻ khác thấy, nghĩ và nói (Trò chơi “Tam sao thất bổn).
5.
Nói
những điều có thể sửa đổi được (là hiện tượng chứ không phải là bản chất).
6.
Chỉ nói
những điều có thể sửa đổi được, nhưng không bắt buộc người kia phải sửa đổi (chỉ
có Chúa biết rõ và có thể thay đổi một con người).
7.
Nói để
giúp ích cho người kia, chứ không phải nói cho hả giận hoặc để trả thù.
8.
Nói với
sự kính trọng và yêu thương, như chia sẻ một mối ưu tư, một cảm tưởng, một
phản ứng tự nhiên.
G.IV.2b Bốn
điều kiện của người nhận Feed-Back:
1.
Phải xin
người khác cho mình Feed-Back.
2.
Lắng
nghe và kiểm chứng là mình đã hiểu rõ.
3.
Đừng mất
tinh thần, nếu gặp phải Feed-Back tiêu cực (bị chê, bị chỉ trích).
4.
Trả lời
cho người cho mình Feed-Back với lòng biết ơn, vì người ta đã vì lòng bác ái mà
cho mình nhận xét, nhất là khi feed-back làm cho mình khó chịu.
Một vấn nạn:
Người cho nhận xét phải đợi người nhận sẵn sàng đã, nhưng nếu người nhận không
xin, mà việc cần góp ý thì phải làm sao? – Theo gương Chúa Giêsu chủ động đi
bước trước: “Ông Simon, tôi có điều này muốn nói với ông – Xin Thầy cứ nói”
G.IV.3 Lợi
ích của việc cho và nhận Feed-Back:
Bề dưới có thể
chủ động xin giờ hẹn để Bề Trên sẵn sàng lắng nghe trình bày và góp ý. Bề Trên
cũng có thể hẹn trước để bề dưới chuẩn bị tinh thần, nhất là đối với người dễ
phản ứng mạnh. Tất cả cũng chỉ vì bác ái, muốn điều tốt nhất cho nhau. Nếu thực
hiện đúng kỹ thuật, việc cho và nhận Feed-Back sẽ đem lại những lợi ích sau đây:
·
Cho
nhau cơ hội để giải thích rất nhiều hiểu lầm (x. Chuyện Khổng Tử và Nhan Hồi).
·
Là cơ
hội giúp ta và tha nhân ý thức được những khía cạnh nhân bản và giao tế của mình
rõ hơn để thăng tiến.
·
Gia
tăng sự tin cậy, tình bằng hữu, loại trừ sợ hãi, tạo bầu khí bình an và an toàn
vốn là đặc tính thiết yếu của một cộng đoàn giáo dục.
·
Nếu
thực tâm nghiên cứu và đem ra thực hành phương pháp này, sinh hoạt Nhóm sẽ phong
phú và bổ ích: ai cũng thấy mình hiểu anh em hơn và được anh em hiểu mình hơn.
Hiểu biết lẫn nhau là chìa khóa của tất cả! Hiểu nhau hơn, thông cảm nhau hơn,
thương nhau hơn và cộng tác với nhau chân thành hơn, còn gì đáng mong ước cho
bằng! Thật là phấn khởi và hy vọng, dù có tế nhị khó khăn và đòi hỏi nhiều bác
ái và can đảm.
·
Quả thế,
công cuộc này xây dựng tình bạn chân thành, để giúp nhau trong cuộc sống đa
nguyên đa diện hôm nay, và vượt thắng những khó khăn trong đời sống hằng
ngày (x. Chuyện Quản Trọng và Bảo Thúc Nha).
·
Đối với
bạn, biết nhau không phải để thắng hay thua, nhưng để hiểu nhau, thương nhau,
nâng đỡ nhau cùng tiến bước trên con đường làm người, làm tín hữu và làm người
tông đồ của Chúa.
·
Chúng
ta là người, không phải là Chúa, để tự nhiên có thể biết được nhau. Do đó, chúng
ta cần cho nhau một số thông tin cần thiết, để vượt quá cái giới hạn “biết người
biết mặt mà không biết lòng” hầu có thể cảm thông nhau đúng với từng hoàn cảnh
cụ thể và cá biệt của nhau, vì chính cuộc sống thực mỗi ngày mạc khải đúng bản
chất con người của chúng ta, chứ không phải các hiện tượng bên ngoài.
G.IV. 4
Chú ý trong sinh hoạt nhóm:
·
Hễ A
xin và B cho Feed-Back, thì A phải trả lời B, và hai người sẽ đối thoại với
nhau, dưới sự chứng kiến của Nhóm, cho đến khi thật hiểu nhau, rồi người khác
mới tiếp tục cho A Feed-Back mới.
·
Khi A
và B đối thoại với nhau thì Nhóm lắng nghe và giúp kiểm chứng cách khách quan
đúng sự thật và công bằng.
·
Khi cho
Feed-Back thì đừng nói cái người khác thấy hay nghĩ, mà chỉ nói cái chính ta
thấy hay nghĩ mà thôi.
·
Hiện có
những nhóm liên kết với nhau bởi động lực thiêng liêng, nhằm giúp nhau bảo vệ và
thăng tiến đời sống ơn gọi, chẳng hạn qua chuỗi sống Mân Côi, mỗi người đọc một
chục kinh hằng ngày cầu nguyện cho nhau và cam kết nói với nhau bất cứ điều gì
với mục đích trên.
Thật
là đáng khâm phục và bắt chước.
·
Chúng ta có thể mong đợi hơn thế nữa, vì việc dấn thân theo Chúa thực sự đưa
chúng ta vào một gia đình thiêng liêng, một cộng đoàn giáo dục thấm đậm tình
người và tình Chúa, vừa nhân loại vừa thiêng liêng, trong mối tương quan của phụ
tử và huynh đệ. Chúng ta tìm mọi cách thích hợp để bảo vệ, phát triển và thăng
tiến nó. MUOI MOT DUONG LOI.ppt
·
Thái
độ khiêm nhu và nhân ái, cảm thông và nâng đỡ của Chúa Giêsu đã khiến muôn dân
đặt niềm hy vọng vào Ngài. Vậy đâu là thái độ ứng xử của chúng ta với anh em
mình?
·
Dĩ
nhiên chúng ta muốn bắt chước Chúa Giêsu, Đấng đã luôn cảm thông nâng đỡ và tha
thứ lầm lỗi, tin tưởng vào tương lai được biến đổi tốt đẹp của người lầm lỗi:
Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, và mỗi tội nhân đều có một tương lai.
·
Chúng ta được mời gọi noi gương Chúa Giêsu, “không bẻ gãy cây sậy đã rạp xuống,
không dập tắt tim đèn còn leo lét khói”; không nhắc lại lầm lỗi quá khứ của anh
em, vì như thế là dập tắt niềm vui được tha thứ và biến đổi của anh em. Trái lại
luôn khích lệ, cổ vũ giúp anh em lật sang một trang mới của cuộc đời, với hy
vọng và tin yêu.
G.IV.5 Áp dụng vào việc ứng sinh viết nhận xét về nhau
·
Được
thúc đẩy bởi ý muốn có một sự cộng tác tích cực trong việc đào tạo ứng sinh tốt,
một số nhà đào tạo muốn ứng sinh viết nhận xét về nhau.
·
Ý
hướng thật tốt, nhưng có thể có phản ứng và hậu quả không như mong muốn. Việc
này vừa giảm nhẹ trách nhiệm của những người có trách nhiệm, ơn đoàn sủng và
nghiệp vụ đào tạo và đánh giá, vừa trao trọng trách quá lớn cho ứng sinh vốn
không có trách nhiệm, ơn đoàn sủng và nghiệp vụ đào tạo, chưa đủ trưởng thành để
phán đoán trách nhiệm lương tâm khi nhận xét theo cảm tính thiên vị hay đầu óc
phe nhóm, tô bồi cho người mình ưa và trù dập kẻ mình ghét.
·
Nên
coi việc này chỉ có giá trị tham khảo về một tình huống mà thôi. Đúng vậy, về
những điều tiêu cực, chỉ nên nói đến một tình trạng, một sự kiện, không nêu đích
danh người nào, để người có trách nhiệm nhắc nhở chung, bản thân ai có thì tự
mình lo sửa chữa cho tốt.
·
Chính người có trách nhiệm sẽ đích thân kiểm tra bằng một cuộc đồng hành sâu
sát, vì thực tế cuộc sống mỗi ngày sẽ mạc khải đúng chân tướng con người: người
ta chỉ có thể giấu giếm một thời gian thôi, chứ chẳng ai che đậy suốt cả đời
được đâu!
·
Trước hết, nên nhớ ai cũng có cái tốt và cái xấu, hãy nêu những điều tích cực để
giúp phát triển cái tốt và đẩy lui cái xấu, như lời khuyên của Baden Powell đối
với 5% tốt và 95% xấu nơi một con người.
·
Còn
nếu thấy anh em có lỗi lầm cụ thể nào, trước hết hãy cầu nguyện cho mình và cho
anh em, rồi đến nói trực tiếp với người anh em như Chúa dạy, nếu anh em quyết
tâm sửa thì thôi, bỏ qua, không nói tới với ai nữa. Nếu người anh em chưa sửa
được, hãy nhẫn nại cầu nguyện và nhắc nhở, vì cái gì cũng cần có thời gian.
·
Nếu
gặp một lỗi nghiêm trọng mà người anh em thiếu tinh thần phục thiện và ngoan cố
thì để tránh thiệt hại lớn cho cộng đoàn lẫn đương sự, sau khi đã trực tiếp làm
mọi cách có thể, và nhất là cầu nguyện, thì hãy theo lương tâm, can đảm đích
thân kín đáo trình bày với người có thẩm quyền và sẵn sàng chịu trách nhiệm kiểm
chứng về điều mình nói, cả khi có mặt chính đương sự.
·
Dĩ
nhiên người có trách nhiệm sẽ xử sự khôn ngoan và kín đáo, không làm cho các
đương sự phải mặc cảm, tổn thương thanh danh, lại nguy hiểm hơn là ác cảm thù
hằn nhau: “Xấu quá hóa giận, giận quá hóa thù,” và họ sẽ đóng lòng lại, không
dám nói gì với mình nữa. Hơn nữa cũng phải chắt lọc điều mình nghe và các hậu ý
của người đến nói.
·
Các
anh em có trách nhiệm đoàn, nhóm cũng nên vận dụng lời thánh Augustinô: Cho anh
em, tôi là tổ trưởng; nhưng với anh em, tôi cũng chỉ là một ứng sinh; đừng làm
hay nói chi gây thiệt hại và đau khổ, đưa lại những phản hồi bất lợi, từ những
người ngoài cuộc: “Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm,
mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện” (Mt 18,31).
·
Dù
Giuđa toan tính phản nộp Ngài, Chúa Giêsu vẫn luôn kín đáo nhắc khéo Giuđa nhiều
lần (một người trong các con sẽ nộp thầy, các ngươi không sạch hết cả đâu,
việc gì con tính làm hãy làm mau đi, con dùng cái hôn để nộp Con Người ư?…).
Hãy nhẫn nại chờ đợi, và mở cho người lầm lỗi một cơ hội để đứng lên (Mt
9,9-13).
·
Trong mọi tình huống, nên “lắng nghe để hiểu, và nhìn lại để thương.” Nhớ dụ
ngôn con chiên lạc của Chúa Giêsu (Lc 15,4-7; Mt 18,12-4): “Người nào trong
các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con
kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi,
người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và
nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị
mất đó.’ Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì
một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính
không cần phải sám hối ăn năn.”
G.IV.5 LÒNG CẢM THÔNG ĐỐI VỚI LẦM LỖI CỦA NGƯỜI KHÁC
Chúng ta đừng quên tiến trình chỉ bảo huynh đệ để sửa chữa lầm lỗi của người
khác mà Chúa Giêsu dạy trong Phúc âm (Mt.18,15-17). Một người có thể có
hai thái độ hành xử: hoặc là phòng bệnh, hoặc là chữa bệnh.
Người cảm thông phòng bệnh đi bước trước, ngăn ngừa những ảnh hưởng tác hại từ
bên ngoài, hay dập tắt ngay từ trứng nước cái mầm bệnh từ bên trong, để lỗi lầm
không thể xảy ra. Như người làm nông năng thăm vườn cây, khi phát hiện cây bị
sâu bệnh liền phun thuốc diệt sâu bệnh hại cây, người cảm thông đón trước khuyến
cáo ngay lỗi lầm có thể, ngăn ngừa các ảnh hưởng và nguyên nhân từ bên ngoài,
hay những yếu đuối từ bên trong thân phận con người.
Người cảm thông tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp
trong tương lai, cho người phạm lỗi biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện hộ,
kết luận xác định đúng lỗi lầm, cho đương sự cơ hội và thời gian sửa chữa, và
nhẫn nại giúp đương sự tập đức tính ngược lại, hy vọng vào kết quả sẽ có trong
tương lai, như dụ ngôn này của Chúa Giêsu:
“Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà
không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này
tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ Nhưng người
làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung
quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt
nó đi”
(Lk 13: 6-9)
Người thiếu cảm thông mới khám phá thấy lỗi lầm đã có biện pháp ngay, vì óc cầu
toàn đòi hỏi và đốt giai đoạn. Hoặc khá hơn, sẽ chờ đợi lỗi lầm trở nên rõ ràng
để có biện pháp, nhất là khi người có lỗi che đậy, giấu giếm vì một lý do nào
đó. Cũng tùy thái độ ngoan cố và thiếu tinh thần phục thiện của người lầm lỗi,
người thiếu cảm thông thường âm thầm theo dõi (hoặc tệ hại hơn là đặt người theo
dõi báo cáo), có khi còn “gài bẩy” cho mắc phải để đương sự không thể cãi lại,
chữa mình hay chối cãi được nữa.
Chớ
gì tiến trình chỉ bảo huynh đệ của Chúa Giêsu được thực thi. Cha ông chúng ta
cũng từng quan niệm: “Nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cãi, thị vị vô quá” (đã là
người thì không ai là không có lỗi, có lỗi thì sửa lỗi, và như vậy sẽ không còn
lỗi nữa). Tuy nhiên, để thực hiện lòng nhân ái ấy, chúng ta cần khéo léo sử dụng
kỹ thuật chỉ bảo huynh đệ “feed-back”, áp dụng vào đào tạo và tự đào tạo, cả về
chiều dọc lẫn chiều ngang: Người và ta, trên và dưới gặp được nhau, hiểu được
nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp.
Hãy
cho người biết lỗi, cho họ cơ hội sửa lỗi, và cho họ thời gian nữa, vì không ai
một sớm một chiều mà sửa ngay được. Tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong
tương lai, với ơn Chúa và sự cố gắng của mỗi người.
Xin Ngài nhớ: dẫu mong manh phận
Đoàn con đây cũng vẫn là con,
Nhậm lời chúng tử nỉ non
Danh Ngài nhân hậu tiếng đồn muôn năm.
Xin tha thứ lỗi lầm trót phạm
Giúp chúng con can đảm vững bền,
Vâng theo thánh ý ngày đêm
Bây giờ mãi mãi trọn niềm hiếu trung.
Thánh Thi Kinh Sáng CN I Mùa Chay
Hồn con thương để xa rời,
Những niềm ân oán mưu đời ghét
ganh;
Bao nhiêu vị kỷ thấp hèn,
Tay Ngài giải cứu vững bền con đi.
Ngàn năm con vẫn kiên trì,
Yêu người yêu Chúa ngại gì nước non,
Dầu cho sông cạn núi mòn,
Tình con sau trước vẫn còn thiết tha.
Thánh Thi Kinh Sách Thứ Năm Tuần I TN
Cuộc sống hiên ngang đầy can đảm,
Mưu thần chước qủy biết phòng xa,
Khổ đau không để chồn chân bước,
Nẻo chính hằng theo bỏ lối tà.
Không ngừng bảo vệ luôn gìn giữ,
Thể xác tâm linh mãi vẹn toàn,
Đốt lửa cháy bừng tin cậy mến,
Tiểu trừ tà ý khỏi tâm can…
Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Hai Tuần I TN
Cho con được tràn đầy thanh thản,
Đổi mới con xán lạn chói lòa,
Chẳng chi xảo trá điêu ngoa,
Sạch từ vạn ý sạch ra muôn lời.
Ngày sáu khắc êm trôi lặng lẽ,
Chúa ngăn ngừa chẳng để phút giây,
Tay chân miệng lưỡi hình hài,
Buông theo tội lỗi mà đầy bợn nhơ.
Chúa theo dõi đường tơ kẻ tóc,
Nhìn xem ta thấu suốt ngọn nguồn,
Công to
việc nhỏ ngàn muôn,
Từ bình
minh tới hoàng hôn rõ ràng.
Thánh Thi Kinh
Sáng Thứ Năm Tuần I TN
Ước mong
đời sống có tình,
Sầu thương vương nhẹ như hình mây bay,
Rồi ra phải trái có ngày,
Ai đời đi trả nợ nần chẳng vay,
Phù sinh một phút trắng tay,
Hơn nhau một chút dở hay ở đời,
Xét đoán là việc Chúa Trời,
Ai mà kết án những người anh em,
Mặt mình cũng có lọ lem,
Tiên vàn lo rửa pha dèm làm chi?
Hận thù hãy mau lấp đi,
Yêu thương xây dựng khắc ghi trí lòng,
Sống sao đáng được khoan hồng,
Trong ngày thẩm phán chí công sau cùng.
|