Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 123, Chúa Nhật 11.07.2010


MỤC LỤC 

CÁC MÔI TRƯỜNG ĐÀO TẠO LINH MỤC                                             ĐTC. Gioan Phaolo 2

 “TRÁNH QUA BÊN KIA MÀ ĐI...”                                                Lm. LÊ QUANG UY, DCCT

Nhận định của Ðức cha phó chủ tịch Hội đồng Việt nam           Gm. Giuse Nguyễn Chí Linh

NÊN NHƯ TRẺ NHỎ.                                                                     Lm. Giuse Trần Việt Hùng

ĐÃ ĐẾN LÚC CÁC GIÁM MỤC CẦN CÓ CÁC VỊ CỐ VẤN RIÊNG          Gioan Lê Quang Vinh

THƯ CHỊ THÁNH TÊRÊXA VIẾT CHO NGƯỜI ANH EM CHỦNG SINH (1)        Nôbertô Thái Văn Hiến dịch.

HIỆP SĨ MÙ…XUẤT HIỆN TRONG ĐÊM HỘI NGỘ KHÓA 65/45 NĂM KỶ-NIỆM           Vũ Ngô Khánh Truật

THA THỨ SẼ GIẢI THOÁT CHÚNG TA                                                        Br. Huynhquảng 

KIÊN NHẪN TÌM HIỂU THÊM VỀ VỢ MÌNH                      Lm. Minh Anh, tổng hợp biên tập

ỨNG SINH GIÚP NHAU  TỰ ĐÀO TẠO CHÍNH MÌNH                         Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

MUA LÁNG GIỀNG GẦN                                                               Bác sĩ Nguyễn Ý Đức, M.D.

SỰ HỢP LÝ CỦA THƯỢNG ĐẾ                                                    Chuyện phiếm của Gã Siêu


CÁC MÔI TRƯỜNG ĐÀO TẠO LINH MỤC

 

TÔNG HUẤN PASTORES DABO VOBIS
VỀ VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY

Nguồn: http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/10/03/tong-huan-pastores-dabo-vobis/

CHƯƠNG V (tiếp theo)

NGÀI THIẾT LẬP HỌ THÀNH NHÓM MƯỜI HAI ĐỂ HỌ NÊN BẠN ĐỒNG HÀNH VỚI NGÀI

 

II. CÁC MÔI TRƯỜNG ĐÀO TẠO LINH MỤC

Cộng đoàn đào tạo trong đại chủng viện.

60. Sự cần thiết phải có đại chủng viện – và phải có cơ sở tôn giáo tương đồng – để đào tạo các ứng sinh linh mục mà Công Đồng Vaticanô II (188) đã khẳng định bằng quyền bính nay lại được Thượng Hội Đồng tái khẳng định như sau: “Cần phải khẳng định một lần nữa rằng cơ chế đại chủng viện, nơi đào tạo tối ưu, là môi trường thông thường, thậm chí sơ đẳng, của một đời sống cộng đoàn có phẩm trật và cũng là cơ sở thích ứng cho việc đào tạo các ứng sinh hướng đến chức linh mục, với những vị bề trên thật sự hiến thân cho thừa tác vụ này. Cơ chế ấy đã mang lại những hoa trái dồi dào theo dòng thế kỷ và còn tiếp tục cống hiến những hoa trái như thế trên khắp thế giới” (189).

Chủng viện được coi như là một thời gian và là một nơi chốn, nhưng trên hết chủng viện được coi như là một cộng đoàn giáo dục theo những bước tiến lần lượt: đó là cộng đoàn được giám mục thiết lập để tạo cho người nào được Chúa kêu gọi phục vụ như các Tông Đồ có điều kiện lặp lại bằng cuộc sống kinh nghiệm giáo dục mà Chúa đã dành riêng cho Nhóm Mười Hai. Thực ra, trong Tin Mừng, một cuộc sống sống bằng tương quan lâu dài và mật thiết với Đức Giêsu được trình bày như là tiền thân cần thiết cho thừa tác vụ tông đồ. Tình nghĩa mật thiết ấy đòi buộc Nhóm Mười Hai, một cách hết sức sáng tỏ và khác thường, thể hiện thái độ siêu thoát, nhờ được đề nghị trong một mức độ nào đó cho hết thảy các môn đệ, đối với môi trường xuất thân, đối với công việc quen thuộc, đối với những tình nghĩa sâu đậm (x. Mc 1,16-20; 10,28; Lc 9,23.57-62; 14,25-27). Chúng tôi đã khá nhiều lần thuật lại truyền thống của thánh Máccô với chỗ nhấn mạnh về mối liên hệ sâu xa nối kết các Tông Đồ với Đức Kitô và với nhau: trước khi được sai đi rao giảng và thi hành việc cứu chữa, các Tông Đồ được mời gọi để “nên bạn đồng hành với Ngài” (Mc 3,14).

Bản chất sâu xa của chủng viện là, bằng cách thế của mình, thể hiện một sự tiếp nối, trong Giáo Hội, cộng đoàn tông đồ quây quần chung quanh Đức Giêsu, với việc lắng nghe Lời Chúa, tiến bước hướng tới kinh nghiệm Vượt Qua, trong khi chờ đợi Thần Khí được hứa ban cho sứ vụ. Đó chính là lý tưởng mà mọi chủng viện đều phải hướng tới. Với tư cách là cơ chế của con người, chủng viện đã mặc lấy trong lịch sử những hình thức rất khác biệt nhau và đã vấp phải muôn vàn khiếm khuyết. Căn tính của chủng viện luôn khích lệ chủng viện tìm gặp một đường lối cụ thể, trung thành với các giá trị Tin Mừng mà chủng viện kín múc, và dù khả năng đáp ứng những tình huống và những nhu cầu của thời đại.

Tự nơi chính mình, chủng viện là một kinh nghiệm nguyên tuyền của đời sống Giáo Hội: trong chủng viện, giám mục hiện diện qua thừa tác vụ mà viện trưởng thi hành cùng với các nhà giáo dục khác, trong tinh thần đồng trách nhiệm và hiệp thông dưới sự hướng dẫn và vận dụng của viện trưởng, nhắm đến sự tăng triển mục vụ và tông đồ của các ứng sinh. Các thành phần khác biệt trong cộng đoàn chủng viện, liên kết với nhau nhờ Chúa Thánh Thần bằng một tình huynh đệ duy nhất, hợp tác với nhau, mỗi người tuỳ theo tài năng riêng của mình, để làm cho mọi người được tăng trưởng trong đức tin và đức ái. Chính nhờ đó mà các ứng sinh được chuẩn bị để trở thành linh mục và do vậy để nối dài, trong Giáo Hội cũng như trong lịch sử, sự hiện diện cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô. Vị Mục Tử Nhân Lành.

Trên bình diện con người, đại chủng viện đã phải nỗi lực trở thành “một cộng đoàn trong đó các thành phần liên kết với nhau bằng một tình bạn và một đức ái sâu xa, để tạo thành một gia đình thực sự với bầu khí vui tươi” (190). Trên bình diện Kitô giáo – các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nói tiếp – chủng viện phải tạo thành một “cộng đoàn Giáo Hội”, một “cộng đoàn môn đệ của Chúa trong đó cùng một phụng vụ thấm nhập tinh thần cầu nguyên vào toàn thể đời sống; cộng đoàn được qui tụ nhờ việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày và nhờ bí tích Thánh Thể; cộng đoàn hiệp nhất với nhau trong việc thực thi đức ái huynh đệ và tinh thần công bằng; trong cộng đoàn ấy, Thần Khí của Đức Kitô và tình yêu của Giáo Hội tỏa chiếu, nhờ vào sự tiến bộ của đời sống cộng đoàn và của đời sống thiêng liêng nơi mỗi một thành phần trong cộng đoàn” (191). Xác quyết và diễn giải một cách cụ thể chiều kích Giáo Hội thiết yếu của chủng viện, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nói tiếp: “Với tư cách là cộng đoàn Giáo Hội, thuộc giáo phận cũng như liên giáo phận hoặc cả đến thuộc dòng tu, chủng viện phải nuôi dưỡng cảm thức về sự hiệp thông Giáo Hội của các ứng sinh đối với giám mục của họ và đối với linh mục đoàn của họ, làm sao để họ thông chia những hy vọng cũng như lo âu của các ngài và biết trải dài trạng thái rộng mở ấy đến những nhu cầu của Giáo Hội phổ quát” (192).

Việc đào tạo các ứng sinh hướng đến chức linh mục và đến thừa tác vụ mục tử vốn tự bản chất mang chiều kích Giáo Hội. Để làm công việc ấy, điều thiết yếu là chủng viện phải được nhìn nhận không phải một cách bên ngoài và bề mặt, nghĩa là như một nơi chốn ăn ở và học hành mà thôi, nhưng một cách bên trong và sâu rộng, như một cộng đoàn Giáo Hội loại biệt, một cộng đoàn lặp lại bằng cuộc sống kinh nghiệm của Nhóm Mười Hai nối kết với Đức Giêsu (193).

61. Như vậy, chủng viện là một cộng đoàn Giáo Hội giáo dục, hay nói đúng hơn, một cộng đoàn đặc thù thực thi việc giáo dục. Điều ấn định diện mạo cho chủng viên, đó là cùng đích loại biệt của chủng viện, nghĩa là việc sát cánh với các linh mục tương lai trong ơn gọi, và bởi đó, việc phân định ơn gọi, sự trợ giúp để đáp lại ơn gọi, và sự chuẩn bị để lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh cùng với những ân sủng và trách nhiệm gắn liền với bí tích nhờ đó linh mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô, Đầu và Mục Tử, được trang bị và được đưa vào nhập cuộc để thông chia sứ vụ cứu độ trong Giáo Hội và trên thế giới.

Vị chủng viện là một cộng đoàn giáo dục, toàn bộ đời sống diễn ra tại đó, trong những biểu hiện dị biệt nhất, đều phải tập trung vào việc đào tạo nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ cho các linh mục tương lai : đó là một nền đào tạo, mặc dầu có nhiều điểm chung với nền đào tạo nhân bản và Kitô giáo cho mọi thành phần thuộc về Giáo Hội, bao gồm những nội dung, những thể loại và những đặc tính phát xuất một cách riêng biệt từ mục đích mà chủng viện theo đuổi: chuẩn bị cho chức linh mục.

Đàng khác, các nội dung và hình thức của công trình giáo dục đòi buộc chủng viện phải lập chương trình một cách chính xác, nghĩa là phải đưa ra một chương trình sống có sự thống nhất giữa các bộ phận và đồng thời được phối trí trong sự hoà hợp với cùng đích duy nhất là cùng đích đem lại ý nghĩa cho sự tồn tại của chủng viện: chuẩn bị cho các linh mục tương lai.

Trong chiều hướng này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng viết: “Với tư cách là cộng đoàn giáo dục, [chủng viện] phải theo một chương trình đã được xác định rõ ràng, có đặc điểm là sự thống nhất điều hành qua vai trò đại diện của Viện Trưởng và các cộng sự viên, qua sự nhất quán trong cách sắp xếp đời sống và hoạt động đào tạo, qua những đòi buộc cơ bản của đời sống cộng đoàn, chính đời sống cộng đoàn này cũng bao gồm những khía cạnh thiết yếu thuộc về công cuộc đào tạo. Chương trình này phải, không do dự cũng không bấp bênh, phục vụ cho cứu cánh loại biệt là cứu cánh duy nhất mang lại ý nghĩa cho sự tồn tại của chủng viện: đào tạo các linh mục tương lai, những mục tử của Giáo Hội” (194). Và để cho chương trình ấy được thực sự thích nghi và hữu hiệu, cần phải diễn dịch những đường hướng lớn của chương trình một cách cụ thể hơn, trong chi tiết, bằng một vài tiêu chuẩn riêng dành cho việc sắp xếp đời sống cộng đoàn, đồng thời ấn định những phương thế và những nhịp điệu thời gian chính xác.

Còn một khía cạnh khác cần phải ghi chú ở đây. Công trình giáo dục tự bản chất là sự sát cánh với những con người cụ thể, những con người sống trong lịch sử, đang bước tới những lựa chọn và tới sự gắn bó với một số lý tưởng sống. Đó chính là lý do đòi hỏi công trình giáo dục phải biết dung hoà hết mọi yếu tố cho ăn nhịp với nhau, từ cái nhìn sáng suốt về mục đích phải đạt, đến sự đòi buộc phải nghiêm chỉnh tiến bước hướng về mục đích ấy, sự quan tâm tới “du khách”, nghĩa là tới con người cụ thể đang dấn thân trong chuyến du hành đào tạo, và bởi đó tới một chuỗi những tình huống, những vấn đề, những khó khăn, những nhịp điệu tiến bước và tăng trưởng. Công việc ấy đòi hỏi một sự uyển chuyển khôn khéo, mà vẫn phải tránh tất cả những gì có thể làm phương hại các giá trị cũng như sự dấn thân có ý thức và tự do, sự uyển chuyển ấy còn phải nói lên lòng yêu mến đích thực và sự tôn trọng chân thành đối với người ứng sinh đang bước tới chức linh mục trong những chiều kích cá vị của mình. Điều này chẳng những có giá trị đối với mỗi một con người nhưng còn là đối với những bối cảnh xã hội và văn hoá khác nhau trong đó diễn ra cuộc sống của các chủng viện và của những hình thái đa tạp trong lịch sử các chủng viện. Hiểu như thế, công trình giáo dục đòi buộc một sự canh tân liên lỉ. Các Nghị Phụ đã kịch liệt nhấn mạnh điều đó, ngay cả về nỗ lực làm cho các chủng viện nên đồng hình dạng: “Trong khi vẫn bảo toàn giá trị của các hình thức chủng viện cổ điển, Thượng Hội Đồng mong muốn rằng công việc tham khảo ý kiến các Hội Đồng Giám Mục về những nhu cầu hiện đại của nền đào tạo phải được tiếp tục theo đuổi, theo như sắc lệnh Optatam totius (số 1) và Thượng Hội Đồng năm 1967 đã tiên liệu. Các chỉ tiêu (Rationes) dành cho mỗi quốc gia hay mỗi lễ chế phải được kịp thời duyệt xét lại, hoặc nhân cơ hội được các Hội Đồng Giám Mục yêu cầu, hoặc nhân dịp những chuyến viếng thăm với tư cách Tông Đồ nơi các chủng viện thuộc những quốc gia khác nhau, để đưa vào trong chủng viện những thể loại đào tạo dị biệt, nhằm đáp ứng nhu cầu của các dân tộc thuộc nền văn hoá gọi là bản thổ, nhu cầu của ơn gọi nơi những người đã lớn tuổi, của ơn gọi thừa sai, v.v…” (196).

62. Cứu cánh và cơ cấu giáo dục của đại chủng viện đòi hỏi các ứng sinh linh mục chỉ được gia nhập sau một thời gian chuẩn bị. Việc chuẩn bị này không không đặt thành vấn đề riêng biệt, ít ra cho đến những thập niên vừa qua, khi mà cứ sự thường các ứng sinh linh mục xuất thân từ các tiểu chủng viện và khi mà đời sống Kitô hữu trong các cộng đoàn Giáo Hội dễ dàng cống hiến cho mọi người, không phân biệt, một nền giáo huấn và giáo dục Kitô giáo khả quan.

Tình huống đã biến chuyển nơi nhiều vùng. Có một sự tương phản đáng kể một đàng, giữa kiểu cách sống và sự đào luyện tự nền tảng cho các trẻ nhỏ, các thiếu niên và thanh niên, ngay cả khi chúng là Kitô hữu và đôi khi đã dấn thân trong đời sống Giáo Hội; đàng khác, giữa kiểu cách sống của chủng viện với những đòi buộc của nền đào tạo. Trong bối cảnh này, cùng hiệp thông với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng. Tôi yêu cầu phải có một giai đoạn xứng hợp cho việc chuẩn bị đi trước nền đào tạo được ban hành ở chủng viện: “Một giai đoạn chuẩn bị về mặt nhân bản, Kitô giáo, trí thức và thiêng liêng cho các ứng sinh đại chủng viện là điều hữu ích. Các ứng sinh ấy cũng cần phải hội tụ những đức tính được ấn định : ý hướng ngay lành, một trình độ trưởng thành nhân bản đầy đủ và một sự hiểu biết khá sâu rộng về giáo thuyết đức tin, một sự khai đạo vào những phương pháp cầu nguyện và vào một kiểu cách sống phù hợp với truyền thống Kitô giáo. Các ứng sinh cũng cần phải có những lối cư xử qua đó tuỳ theo những phong tục của địa phương mình, chứng tỏ nỗ lực truy tầm Thiên Chúa và đức tin (x. Evangelii nuntiandi, số 48)” (197).

Sự “hiểu biết khá sâu rộng về giáo thuyết đức tin” mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đề cập là điều kiện phải có trước khi học thần học : không thể nào phát triển “sự thông hiểu của đức tin” nếu như không nắm vững nội dung “đức tin”. Một lỗ hổng như thế sẽ được dễ dàng lấp đầy hơn nhờ vào bộ Giáo lý phổ quát sắp phát hành.

Trong khi mọi người đều có chung một niềm xác tín về sự cần thiết phải có giai đoạn chuẩn bị trước khi gia nhập chủng viện, các quan điểm lại khác biệt nhau về những nội dung và những đặc tính của chủng viện, nghĩa là về mục đích đệ nhất của chủng viên : đào tạo thiêng liêng để giúp phân định ơn gọi hoặc đào tạo trí thức và văn hoá. Đàng khác, không thể không kể ra nhiều dị biệt sâu xa vẫn tồn tại chẳng những nơi các ứng sinh khác nhau, mà còn cả nơi các miền hoặc các quốc gia. Sự kiện ấy kêu mời phải kéo dài giai đoạn học và thực tập hiện nay, để có thể xác định một cách thích đáng hơn và hợp nghĩa hơn các yếu tố thuộc về giai đoạn chuận bị ấy hay còn gọi là “giai đoạn dự bị: thời gian, nơi chốn, hình thức, đề tài cho giai đoạn ấy, để rồi còn phải phối trí giai đoạn ấy với những năm đào tạo kế tiếp ở chủng viện.

Trong chiều hướng ấy, Tôi đích thân lặp lại và Tôi đề nghị một lần nữa với Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo lời yêu cầu mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã phát biểu : “Thượng Hội Đồng yêu cầu Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo thâu thập tất cả mọi thông tin liên quan tới những kinh nghiệm ban đầu của nền đào tạo này đã được khởi xướng hoặc đang diễn tiến trong giai đoạn hiện nay. Vào thời gian thích hợp, Thánh Bộ sẽ chuyển đạt cho các Hội Đồng Giám Mục những thông tin về vấn đề này” (197).

Tiểu Chủng Viện và những hình thức khác để sát cánh các ơn gọi.

63. Như kinh nghiệm lâu dài tỏ rõ cho thấy, biểu hiện đầu tiên của ơn gọi linh mục thường trùng hợp với những năm tháng trước thời niên thiếu hoặc với những năm tháng đầu của lứa tuổi thanh niên. Và, ngay cả nơi những người quyết định vào chủng viện muộn hơn, điều thường tình vẫn là nhận ra được sự hiện diện của lời mời gọi đến từ Thiên Chúa vào những năm tháng xa xưa về trước. Lịch sử Giáo Hội không ngừng làm chứng về những tiếng gọi của Chúa trong thời tuổi trẻ. Thánh Tôma, chẳng hạn, giải thích lòng ưu ái đặc biệt của Đức Giêsu dành cho Tông Đồ Gioan “với lý do Gioan còn trẻ tuổi” và rút ra kết luận như sau: “Điều này giúp hiểu được rằng Thiên Chúa đặc biệt yêu quý những ai hiến thân phục vụ Ngài ngay từ buổi đầu của tuổi trẻ” (198).

Giáo Hội nỗ lực chăm sóc những hạt mầm ơn gọi được gieo vãi trong tâm hồn các trẻ em; nhờ các tiểu chủng viện, Giáo Hội thực hiện việc phân định buổi đầu và để tâm sát cánh các hạt mầm ơn gọi ấy. Trong nhiều vùng trên thế giới, các chủng viện như thế vẫn đang tiếp tục thực hiện một công trình giáo dục quý giá, để bảo tồn và phát triển những hạt mầm ơn gọi linh mục, hầu các học sinh có thể nhận ra ơn gọi dễ dàng hơn và được nên đủ khả năng hơn để đáp trả ơn gọi. Phương án giáo dục của các chủng viện này nhắm tạo điều kiện thuận lợi, một cách xứng hợp và qua từng giai đoạn, cho việc đào tạo nhân bản, văn hoá và thiêng liêng nhờ đó hướng dẫn người trẻ đi vào con đường đại chủng viện với một nền tảng thích ứng và vững chắc.

Luyện tập để nối gót Đức Kitô Cứu Thế với tinh thần quảng đại và với tâm hồn trong trắng” : đó là mục đích của tiểu chủng viện như đã được nêu dẫn trong sắc lệnh Optatam notius, sắc lệnh này trình bày kiểu cách giáo dục của tiểu chủng viện như sau : “Dưới sự hướng dẫn bằng tình cha con của các vị bể trên, với sự hợp tác rất hữu ích của các bậc cha mẹ, các chủng sinh sẽ trải qua một cuộc sống phù hợp với lứa tuổi, với não trạng và với diễn biến của thời niên thiếu, một cuộc sống đáp ứng trọn vẹn những tiêu chuẩn của một đời sống tâm lý lành mạnh. Không được bỏ qua việc bảo đảm cho các chủng sinh có được kinh nghiệm thích hợp về những thực tại nhân linh và về những mối quan hệ bình thường với gia đình” (199).

Trong giáo phận, tiểu chủng viện sẽ có thể là tụ điểm cho mục vụ các ơn gọi, bằng cách đề nghị những hình thức tiếp đón xứng hợp và bằng cách tạo những cơ hội thông tin cho các thanh thiếu niên đang đi tìm ơn gọi, hoặc, đã nhất định theo đuổi ơn gọi, nhưng còn buộc phải trì hoãn việc gia nhập chủng viện vì những lý do như hoàn cảnh đủ loại, gia đình hoặc học vấn.

64. Ở những nơi nào mà tiểu chủng viện – thật sự cần thiết và rất hữu ích, nơi nhiều miền – không thể được thành lập, cần phải thay thế bằng cách thiết lập những “cơ chế” khác (200), như, chẳng hạn, những nhóm ơn gọi dành cho thiếu niên hoặc thanh niên. Mặc dầu không có tính cách trường tồn, các nhóm này sẽ có thể, trong một bối cảnh cộng đồng, cung cấp những điều kiện thuận lợi cho sự xác quyết và sự tăng trưởng ơn gọi. Vẫn sống trong gia đình mình, đồng thời thường xuyên lui tới với cộng đoàn Kitô hữu để được giúp đỡ trong tiến trình đào tạo, các thiếu niên và thanh niên này không thể bị bỏ mặc đơn độc. Họ cần đến một nhóm riêng rẽ hoặc một cộng đoàn làm nơi quy tụ, để có thể cậy dựa vào đó mà hoàn thành hành trình ơn gọi mà ân huệ của Chúa Thánh Thần đã khởi xướng nơi họ.

Bởi vì đây là điều đã luôn xảy ra trong dòng lịch sử Giáo Hội, ngày nay người ta ghi nhận, với một sự mới mẻ và một sự thường đều đáng khích lệ, hiện tượng những ơn gọi linh mục này sinh vào tuổi trưởng thành, sau một kinh nghiệm lâu dài về cuộc sống giáo dân và về cuộc sống dấn thân trong nghể nghiệp. Không phải lúc nào cũng là điều có thể và cứ sự thường là điều không xứng hợp, nếu muốn mời gọi những người lớn tuổi ấy theo đuổi hành trình giáo dục của đại chủng viện. Tốt hơn, sau khi đã phân định kỹ lưỡng tính chính hiệu của các ơn gọi ấy, cần phải đề ra một hình thức đặc loại nào đó để sát cánh và để đào tạo, làm thế nào để vận dụng những thích nghi thoả đáng mà bảo đảm cho có được một nền đào tạo tất yếu về mặt thiêng liêng và trí thức (201). Nếu được điều chế một cách tốt đẹp trong những mối quan hệ với các ứng sinh khác cùng hướng đến chức linh mục và trong những thời gian có mặt với cộng đoàn đại chủng viện, các ơn gọi ấy sẽ chắc chắn đạt được sự hội nhập trọn vẹn vào trong linh mục đoàn duy nhất và đạt được sự hiệp thông mật thiết và thân tình với linh mục đoàn.

còn tiếp

chú thích: Lưu ý: những số chú thích nhỏ hơn đã được ghi vào số báo kỳ trước

188) X. Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục, Optatam totius, ĐT, số 4.

189) Propositio 20.

190) Như trên.

191) Như trên.

192) Như trên.

193) Diễn văn cho các học sinh và cựu học sinh Trường Capranica (21/1/1983): Insegnamenti VI/1 (1983), tr. 173-178).

194) Propositio 20.

195) Như trên.

196) X. Propositio 19.

197) Như trên.

198) In Iohannem Evangelistam Expositio, c.21, lect.V, 2.

199) Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục, Optatam totius, ĐT, số 3.

 
VỀ MỤC LỤC
“TRÁNH QUA BÊN KIA MÀ ĐI...”
 

Con cứ ám ảnh mãi cái câu Chúa kể về ông thầy Tư Tế và ông thầy Lêvi, họ đã trông thấy nạn nhân dở sống dở chết trên đường xuống Giêrikhô, lần lượt, kẻ trước người sau, họ đã “tránh qua bên kia mà đi”.

Kính thưa Chúa Giêsu,

Tối hôm qua, thứ tư 7.7.2010,
khi hướng dẫn buổi Suy Tôn Lời Chúa
chuẩn bị cho Chúa Nhật 15 thường niên sắp đến,
như mọi lần, con đã nói, đã trình bày,
đã giảng trước cộng đoàn trong Nhà Thờ rất hăng, rất say sưa nhiệt thành.
Nhưng rồi sau đó, câu truyện Chúa kể cho ông thông luật
về một người Samari tốt bụng, thú thật, đã làm con phải ray rứt xấu hổ.

Câu truyện quen lắm, thuộc làu,
thậm chí hồi con còn thanh niên, năm 1980, chưa đi tu,
con đã sáng tác cả một vở nhạc cảnh nho nhỏ
để cùng cha Tiến Lộc, lúc ấy vừa mới đi tù về rồi sẽ lại đi tiếp,
và các bạn Nhóm Mai Khôi diễn trong các buổi sinh hoạt Giáo Lý.
Vậy mà lần này, bây giờ, đọc lại câu truyện,
con cứ ám ảnh mãi cái câu Chúa kể về ông thầy Tư Tế và ông thầy Lêvi,
họ đã trông thấy nạn nhân dở sống dở chết,
lần lượt, kẻ trước người sau, đã “tránh qua bên kia mà đi”.

Con bị thôi thúc phải viết ra những giòng này,
không phải như một bài báo con thường viết mọi khi,
mà như một lời nguyện để sám hối riêng trước Chúa
và để xin lỗi chung các anh chị em của con,
những người cũng đang nằm dở sống dở chết ngay trên đường con đi
hôm qua, hôm nay, và có lẽ cả ngày mai nữa !

Kính thưa Chúa Giêsu,

Giống như thầy Tư Tế và thầy Lêvi,
Con cũng đã “tránh qua bên kia mà đi”
vì trước mặt con, mới hôm 3 tháng 7 đây thôi,
có một Giáo Dân ở Cồn Dầu, Giáo Phận Đà Nẵng,
không chỉ bị đánh trọng thương, mà còn bị rơi vào nỗi sợ hãi đến chết.
Con đọc được tin tức trên mạng, thấy nhói lòng, xót xa một thoáng, rồi thôi,
lại tiếp tục mải mê với công việc Mục Vụ mình đang đảm nhận.
Con tệ bạc đến nỗi quên cả đọc một câu kinh cầu nguyện cho linh hồn người ấy
như thói quen vẫn làm khi gặp một người bị tai nạn xe cộ ngoài đường !

Con đã chọn thái độ im lặng cho khỏi bị rắc rối
với cả phía chính quyền lẫn phía giáo quyền.
Con biện hộ là mình có nói chi đi nữa
cũng chẳng ăn thua gì với ai,
cũng chẳng thể giải quyết được vấn đề.
Con tự dỗ dành mình là, thôi, cứ yên tâm đi,
rồi ra Đức Cha và các Cha ở Giáo Phận Đà Nẵng,
không khéo cả các Đức Cha khác trong Hội Đồng Giám Mục,
sẽ có cách để cứu giúp và bênh vực gia đình nạn nhân.
Lại có tiếng nói thì thầm ngăm đe trong thâm tâm con:
Này, liệu hồn, không nhớ năm ngoái
đã mạnh miệng nói gì, đã mạnh tay viết gì, để đến nỗi bây giờ...

Thế là xong, con đã... “tránh qua bên kia mà đi” !

Kính thưa Chúa Giêsu,

Bao nhiêu lần như thế rồi, chứ không phải lần đầu,
và chắc cũng sẽ không phải là lần cuối đâu.
Đã có nhiều lắm những anh chị em của con bị đánh nhừ tử
tại Hà Nội, tại Quảng Bình, tại Hà Tây, và những nơi khác nữa.
Đó là chưa tính cả những người không phải Công Giáo,
chưa tính những dân oan trên cả nước,
có thể chưa bị đánh đến mức thương tích thê thảm hiểu theo nghĩa đen,
nhưng cũng đủ phải dở sống dở chết, kinh hoàng, hoang mang...
Vậy mà, con cũng đã “tránh qua bên kia mà đi”.

Khi con soạn bài giúp Suy Tôn Lời Chúa và giảng Chúa Nhật,
Con đã đọc được nơi phần chú giải trong bản “Lời Chúa Cho Mọi Người”
một đoạn rất thấm thía, nguyên văn như thế này:

Có lần, ông Martin Luther King
( một mục sư người Mỹ da đen, đã bị ám sát vì lập trường bất bạo động của ông )
ghi nhận rằng tình thương không giới hạn trong việc trợ giúp những ai đau khổ:
“Ban đầu, chúng ta phải là người Samari tốt lành
đối với những người đã gục ngã trên đường.
Nhưng một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải công nhận rằng
“con đường Giêrikhô” phải được chỉnh đốn lại,
để những người đàn ông đàn bà đang đi trên đường đời
không còn tiếp tục bị đánh đập và cướp bóc nữa...”

Thưa anh chị em, “những người thân cận” của tôi,
Tôi xin lỗi tất cả anh chị em,
xin lỗi những phụ nữ, những cụ già, những em bé,
những người trên đường đi Giêrikhô ngày hôm nay,
đã bị đánh nhừ tử, dở sống dở chết bằng nhiều cách, ở nhiều nơi,
xin lỗi cả hương hồn người đàn ông mới chết tức tưởi tại Cồn Dầu.

Tôi xin lỗi anh chị em vì đã từng và vẫn đang còn “tránh qua bên kia mà đi”.
Tôi thú nhận trong nhục nhã với lương tâm mình,
rằng tôi đã sợ hãi, tê liệt, bó tay, không giúp được gì cho anh chị em.
Xin tha lỗi cho tôi, người được xếp loại là thầy Tư Tế, thầy Lêvi !

Xin lỗi anh chị em xong rồi,
ngoài việc bộc bạch hết ra như thế này, thú thật với anh chị em,
tôi cũng chưa biết phải làm gì hơn, phải làm gì tiếp theo nữa.
Chính điều ấy càng làm tôi buồn,
càng làm tôi thấy mình không đáng được anh chị em tha thứ. 

Kính thưa Chúa Giêsu,

Con xin cúi đầu sám hối trước Chúa,
Đấng đã từng dừng lại dọc đường
chứ không “tránh qua bên kia mà đi”
khi thấy chính con, thấy mọi người, thấy cả nhân loại này
bị tội lỗi đánh cho nhừ tử, nằm dở sống dở chết trong đời.
Chúa đã tiến lại gần, thật gần, cúi xuống, quỳ hẳn xuống,
lấy chính máu của Chúa mà đổ lên vết thương của chúng con
băng bó lại, rồi đưa chúng con vào Nhà Thương của Chúa
để Hội Thánh chăm sóc chữa lành cho chúng con bằng các Bí Tích.

Con sám hối là vì con đã nhiều lần hèn nhát, sợ hãi,
không dám bắt chước Chúa, cư xử giống như Chúa trong đời con,
không dám lên tiếng bênh vực người cô thế, phải chịu bất công
không dám khởi sự một việc nào đó có ý nghĩa, dù hết sức nhỏ bé,
như mục sư Martin Luther King đã kêu gọi trước khi bị giết chết:
"để những người đàn ông đàn bà đang đi trên đường đời
không còn tiếp tục bị đánh đập và cướp bóc nữa.”

Sám hối rồi, mà thú thật với Chúa,
con cũng không biết mình có thể can đảm sống được như Chúa muốn hay không !
Chính điều ấy càng làm con thêm ray rứt,
làm con thấy mình không đáng được Chúa tha thứ.
Thôi thì, xin Chúa chữa lành cho con
bằng một ơn nào đó Chúa thấy lúc này là cần thiết đối với con.

Để kết thúc, con xin chép lại một lời nguyện
của cha Nguyễn Công Đoan, Dòng Tên,
cha giáo môn Kinh Thánh của con hồi trước.
Lời nguyện này con nghe chính ngài kể
là ngài đã viết ra trong khi ngồi tù cách nay hơn 30 năm:

Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo Ý Chúa,
Làm chân tay cho người què cụt,
Làm đôi mắt cho người đui mù,
Làm lỗ tai cho người bị điếc,
Làm miệng lưỡi cho người không nói được,
Làm tiếng kêu cho người chịu bất công.

Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đồng lúa,
Để đưa cơm cho người đói đang chờ,
Và đưa nước cho người họng đang khô,
Đem thuốc thang cho người đang đau ốm,
Đem áo quần cho người đang trần trụi,
Đem mền đắp cho người rét đang run.

Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đường vắng,
Thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,
Đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,
Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,
Nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,
Đem tự do cho những kiếp đọa đầy.

Lạy Chúa, xin cứ gửi con vào thôn xóm,
Đem an hòa cho những ai bất thuận,
Đem yên bình cho kẻ sống âu lo,
Đem ủi an cho người đang sầu khổ,
Đem niềm vui cho những ai bất hạnh,
Đem vận may cho người gặp rủi ro.

Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả,
Cho mọi người được hạnh phúc an vui.
Còn phần con, xin gửi hết nơi Ngài,
Là Thiên Chúa, là tình yêu, là lẽ sống,
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng,
Để tin yêu mà vui sống trọn đời...

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, thứ năm 8.7.2010

VỀ MỤC LỤC
Nhận định của Ðức cha phó chủ tịch Hội đồng Việt nam về việc cử hành Năm Thánh tại Việt nam

 Nguồn: đài Chân Lý Á Châu (Manila)

 

Việt Nam [Zenit 6/7/2010, Eglises d' Asie] - Kính thưa quý vị, các bạn thân mến. Mới đây, Ðức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục Thanh Hóa, phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt nam, đã dành cho hãng thông tấn "Eglises d' Asie" [các Giáo hội Á Châu] của Hội Thừa Sai Paris một cuộc phỏng vấn, qua đó ngài nhìn lại tác động của Năm Thánh đối với đời sống các tín hữu Công giáo tại Việt nam, cách riêng trong giáo phận Thanh Hóa của ngài.

 

Ðức giám mục Thanh hóa cho biết: trong 6 hạt của giáo phận đều có những cuộc cử hành chung. Ngoài ra, giáo dân của giáo phận cũng được mời gọi đến những trung tâm của các giáo phận khác. Như vậy, theo Ðức cha Linh, Năm Thánh là thời gian để các tín hữu Thanh hóa sống mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo hội một cách cụ thể.

 

Theo chương trình, cao điểm của Năm Thánh sẽ là Ðại hội Dân Chúa diễn ra tại Sài gòn vào ngày 24 tháng 11 năm 2010. Ðức giám mục Thanh Hóa nói rằng cùng tham dự đại hội với ngài sẽ có linh mục tổng đại diện và hai đại diện giáo dân. Vai trò của hai đại diện giáo dân này là thu thập tiếng nói của giáo dân trong giáo phận và trình bày tại Ðại hội. Theo Ðức cha Linh, giáo dân trong giáo phận ngài đang chờ đợi sứ điệp mà Ðại hội sẽ gởi đến cho họ.

 

Ðược hỏi về việc Ðức cha Ngô Quang Kiệt từ chức Tổng giám mục Hà nội, Ðức cha Linh trả lời như sau: "Nhiều người đã đặt câu hỏi: "Tại sao Ðức Cha Kiệt ra đi?" Ðây có phải là ý riêng của Ðức tổng giám mục không? Ngài có chịu sức ép nào của Tòa thánh, của Hội đồng Giám mục hay của nhà nước Việt nam không?

 

Nhiều người nghĩ rằng việc ra đi của Ðức cha Kiệt là một biến cố phải làm cho Giáo hội tại Việt nam đau buồn. Ðức Cha Kiệt là niềm hy vọng, là biểu tượng của can đảm đối lại với chế độ cộng sản. Theo tôi, trong những ý kiến phản ánh các khuynh hướng khác nhau này, có phần đúng mà cũng có sai lầm. Tôi không phải là phát ngôn viên của Ðức cha Kiệt, cũng không phải là đại diện của Hội đồng Giám mục. Tôi chỉ nói với tư cách cá nhân và dựa trên những gì tôi nghe nói từ chính miệng Ðức cha Kiệt. Ngài nói với tôi rằng lúc còn ở Lạng Sơn, cách đây vài năm, ngài bị chứng mất ngủ và không thể chữa trị được. Sau khi đến Hà nội, chứng mất ngủ vẫn tiếp tục. Lúc đó, ngài mới nhận thấy rằng sức khỏe của ngài không những không tốt hơn mà còn suy sụp. Ngài mới làm đơn xin từ chức. Ðây là lá đơn mà ngài đã viết ra theo lương tâm của ngài."

 

Theo Ðức giám mục Thanh Hóa, Ðức cha Kiệt nói rằng nếu ngài tiếp tục làm việc thì sẽ gây bất tiện hơn là mang lại lợi ích cho Giáo phận. Do đó, ngài kết luận rằng vì lợi ích của giáo phận, ngài nên ra đi.

 

Ðức cha Linh nói rằng những ý nghĩ này đến với Ðức cha Kiệt vào chính lúc xảy ra những cuộc xung đột về Tòa khâm sứ cũ và Giáo xứ Thái Hà. Chính vì sự trùng hợp này mà dân chúng đã liên kết các cuộc xung đột về đất đai với quyết định từ chức của Ðức cha Kiệt.

 

Nhưng Ðức cha phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt nam giải thích: "Theo những gì Ðức cha Kiệt nói với tôi, ngài không bao giờ bỏ cuộc trước bất cứ áp lực nào, dù đến từ đâu. Sở dĩ ngài xin từ chức là vì nghĩ rằng sức khỏe không cho phép ngài tiếp tục thi hành tác vụ một cách bình thường. Và ngài đã nộp đơn và nài nỉ cho đến khi Tòa thánh chấp thuận đơn xin từ chức của ngài. Lúc đầu ngài liên lạc với bộ truyền giáo, với Ðức hồng y Ivan Dias. Không được bộ này trả lời, ngài đã trực tiếp đệ đơn lên Ðức thánh cha Benedicto XVI và ngày 13 tháng 5 năm 2010, Ðức thánh cha đã chấp thuận đơn của ngài trong một thông cáo".

 

Trong ngày nhậm chức của Ðức cha Nguyễn văn Nhơn, tân Tổng giám mục phó Hà nội, Ðức cha Linh có nói rằng ngài vui mừng vì các Ðức giám mục đã có thể nghe được tiếng nói của dân Chúa.

 

Ðược hỏi: liệu ngài có tiếp tục nghĩ như thế không, Ðức cha phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt nam trả lời rằng ngài vẫn duy trì suy nghĩ ấy vì hai lý do. Trước hết, "chúng ta đã bước vào thời đại mới, trong đó truyền thông và Internet đóng một vai trò ngày càng quan trọng. Tiếng nói của giáo dân và các lời tuyên bố của họ có thể được nghe thấy trong những điều kiện thuận lợi nhứt đối với các vị lãnh đạo Giáo hội cũng như công luận. Hiện tượng này buộc các nhà lãnh đạo của bất cứ tổ chức nào, xã hội cũng như Giáo hội, phải lắng nghe và lắng nghe một cách chăm chú hơn.

 

Lý do thứ hai là trình độ văn hóa của giáo dân ngày nay cao hơn. Nhờ các phương tiện truyền thông, họ có thể theo dõi thời sự, biết nhiều tin tức về Giáo hội. Cũng thế, họ cũng có thể bày tỏ ý kiến một cách dễ dàng hơn.

 

Trước những đồn đãi có chia rẽ trong hàng ngũ giáo sĩ cũng như giáo dân tại Việt nam, nhứt là sau vụ từ chức của Ðức cha Kiệt, Ðức cha Linh trả lời rằng cần phải hiểu thế nào là "chia rẽ". Theo ngài, nếu hiểu chia rẽ là một sự bày tỏ lập trường của phe này chống lại phe nọ trong nội bộ Giáo hội, thì đây không phải là điều đang xảy ra tại Việt nam.

 

Ðức giám mục Thanh Hóa nói rằng "bên ngoài Giáo hội, có những người không yêu mến Giáo hội; họ muốn chia rẽ Giáo hội và phá vỡ sự hiệp nhứt Giáo hội. Nhưng đây không phải là trường hợp Việt nam. Trong suốt dòng lịch sử, luôn có những kẻ thù của Giáo hội muốn thấy Giáo hội bị chia rẽ. Ðây là một hiện tượng thường xảy ra trong lịch sử Giáo hội.

 

Thật ra, theo Ðức cha Linh, điều đang xảy ra hiện nay tại Việt nam chính là sự thay đổi trong cách phát biểu: đây là một sự thay đổi của thời đại chúng ta. Ai cũng muốn khẳng định sự khác biệt của mình, ai cũng muốn bày tỏ tư tưởng của mình mà không sợ hãi.

 

Ngài khẳng định: "Trong Giáo hội Việt nam, có lẽ ai cũng muốn nói lên những khác biệt của mình, nhưng không có ai nói đến chia rẽ hay tách biệt cả."

 

Nhận định về mối quan hệ giữa chính quyền cộng sản và hàng giáo phẩm, giáo sĩ cũng như giáo dân, Ðức cha phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt nam nói rằng vì những lý do ý thức hệ và hoàn cảnh lịch sử, trong giai đoạn đầu, đã có những hiểu lầm giữa người Công giáo và người cộng sản. Nhưng dần dần đã có sự hiểu biết và cảm thông giữa hai bên. Một số người cộng sản đã viếng thăm Vatican và Thánh Ðịa; họ tiếp xúc với cộng đồng thế giới trong đó có đông đảo tín hữu Kitô. Họ có một phán đoán khách quan hơn về Kitô giáo nói chung và người Công giáo nói riêng.

 

Theo ngài, giữa người Việt nam với nhau, vẫn còn nhiều khác biệt về ý thức hệ và chính kiến. Tuy nhiên, mọi người vẫn có thể hiểu nhau. Ai cũng muốn được sống trong hòa hợp, đoàn kết, liên đới bằng cách loại bỏ những cội rễ của chia rẽ và bất hòa.

 

Ðức cha Linh nói rằng sự sống chung hòa bình là một giá trị của Tin Mừng.

 

Kết luận, ngài kêu gọi: "Tôi chỉ có thể kêu gọi tất cả mọi người thiện chí hãy xây dựng cách sống chung trong hòa bình này, vốn phù hợp với tinh thần Tin Mừng".

 

CV.

 

VỀ MỤC LỤC
NÊN NHƯ TRẺ NHỎ.

 

Nhân chi sơ, tính bản thiện.

William Barclay kể câu truyện về một thầy giáo già. Trước khi bắt đầu lớp học, thầy thường đứng trước lớp học và cúi đầu sâu chào học sinh. Thầy luôn làm như thế với sự kính trọng đặc biệt. Một ngày nọ, vài người hỏi tại sao thầy làm như thế? Thầy trả lời rằng cúi đầu chào học sinh, vì thầy không biết tương lai của mỗi trẻ sẽ ra sao. Thầy nhìn thấy nơi mỗi đứa trẻ có nhiều khả năng tiềm ẩn và thầy cúi chào với sự tin tưởng rằng trong thời gian tới, sẽ có nhiều học sinh sẽ thành đạt và thành nhân.

1.     Chúa Và Trẻ Thơ

Trẻ nhỏ như là các thiên thần của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã yêu thương và đón nhận các trẻ nhỏ như là kho tàng của Nước Trời. Các trẻ nhỏ là những thụ tạo tinh túy nhất, có một tiềm năng vô song hướng về sự toàn thiện. Cha ông đã nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Trẻ thơ là món qùa vô giá mà Chúa trao ban cho các bậc cha mẹ. Nhìn xem sự chăm sóc trìu mến của các bà mẹ với các trẻ thơ, chúng ta nhận ra được mầu nhiệm của tình yêu. Mầu nhiệm của tình mẫu tử và tình phụ tử.  Món qùa phải được trân qúi và bảo toàn với bất cứ giá nào. Chúa Giêsu rất yêu qúi trẻ thơ. Chúa đón nhận, chúc lành và ôm ẵm chúng vào lòng. Tiếp nhận trẻ thơ là tiếp nhận chính Chúa: “Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy (Mt 18:5).

Muốn vào Nước Trời, chúng ta phải có tâm hồn trẻ thơ. Nghĩa là có tâm hồn đơn sơ chân thật, không nói một lời hai ý. Trẻ em có sao nói vậy. Người ta thường nói: “Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Đừng bao giờ chúng ta dạy trẻ nói dối. Tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng được trao phó cho cha mẹ và những người hữu trách dạy dỗ chăm nom và yêu thương dìu dắt. Trẻ thơ là niềm vui, là nụ cười và là niềm hy vọng của gia đình. Muốn có hạnh phúc thật, chúng ta hãy sống tinh thần trẻ thơ như thánh Nữ Têrêxa hài Đồng Giêsu. Chúa Giê-su nói: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng."(Mt. 19:14). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng ngăn cấm trẻ thơ, hãy mở rộng vòng tay đón nhận và tôn trọng chúng như những món qùa mà Chúa trao ban để yêu mến và dưỡng dục.

2.     Dắt Con Trên Đường Đời

Trước sân nhà thờ nơi tôi phục vụ có một ngã tư. Đứng quan sát xe cộ nhường nhau qua lại theo dấu chỉ của đèn đường và nhiều người đi bộ vội vàng tranh thủ bước qua. Một hình ảnh làm tôi suy nghĩ khi nhìn thấy những người mẹ dắt tay con trẻ vội vã qua đường tránh làn xe. Mẹ luôn bước rảo thật nhanh, tay kéo theo con nhỏ. Bước chân mẹ rộng và dài, mẹ đi hối hả kéo con đi cùng. Con nhỏ vừa đi vừa chạy cho kịp theo bước chân của mẹ. Tôi không biết mẹ có để ý đến những bước chân nhỏ bé của con không, nhưng con cứ phải theo mẹ. Mẹ dẫn và dắt con theo. Mẹ bảo vệ cho con được an toàn. Mẹ dắt con theo cách của mẹ, cho dù con bước vội vàng và hụt cả hơi. Nhưng rồi khi con biết chập chững biết đi, biết chạy, con lại muốn rời tay mẹ và đi tự do một mình.

Người ta nói: Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính. Mỗi đứa con có một khả năng, tính tình và một sở thích khác nhau. Cùng chung dòng máu, chung cha chung mẹ nhưng mỗi cá nhân đều có một căn tính khác biệt. Cha mẹ cần nhận diện sự khác biệt này để đối xử và dạy dỗ con mình. Tâm hồn trẻ thơ thật mong manh và nhạy cảm, cha mẹ và các thày dạy đừng khi nào làm tổn thương tâm hồn bé nhỏ. Sự phán đoán của người lớn cần sự khôn ngoan và chân thật. Không nên hàm hồ và có khuynh hướng thiên tư sai lạc. Dẫn dắt con thì phải dẫn cho đúng đường. bàn tay nhỏ bé của con cái nắm chắc vào bàn tay chai cứng của cha mẹ trong sự phó thác và cậy trông. Cha mẹ phải luôn nêu gương mẫu mực cho con cái. Sự dậy dỗ và dẫn dắt trẻ thơ cũng cần có thời gian và điều kiện thích hợp theo khả năng. Chúng ta không nên dồn ép. Thánh Phaolô dạy: “Anh em, về mặt phán đoán thì đừng sống như trẻ con; về đàng dữ, sống như trẻ con thì được, nhưng về mặt phán đoán thì phải là người trưởng thành” (1 Cor.14:20).

3.     Giáo Dục Con

Trẻ em cần được hướng dẫn và dạy dỗ theo sự hiểu biết và lãnh hội của từng lứa tuổi. Thơ của Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Corintô viết rằng: “Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con (1 Cor. 13:11). Khi còn nhỏ, các trẻ thơ rất bén nhạy trong cảm xúc và phản ứng tự nhiên. Nghe sao nói vậy. Học biết và bắt chước mọi điều rất mau lẹ. Tất cả mọi thứ mà các em hiểu biết được, các em đều phải học. Học từ cha mẹ, học từ thầy cô giáo ở trường lớp, học từ bạn bè và học từ mạng lưới truyền thông. Chọn trường mà học, chọn bạn mà chơi. Hoàn cảnh chung quanh sẽ  ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ em. Trẻ em cần có những hướng dẫn căn bản về đạo lý và cách học làm người. Tác giả thơ gởi tín hữu Do-thái đã viết: “Thật vậy, phàm ai còn phải dùng đến sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính, vì người ấy vẫn là trẻ con. Thức ăn đặc thì dành cho những người đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ” (Dt. 5:13-14).

Biết rằng không cha mẹ nào muốn cho con cái mình những của xấu. Từ muốn sự tốt lành đi đến thực hành còn một khoảng cách xa. Cha mẹ luôn yêu thương con cái, nhưng rồi có những cách yêu thương không thích hợp. Có khi cha mẹ dung dưỡng con cái, chiều lòng mọi thứ và con muốn gì được nấy. Thích trò chơi điện tử nào là cha mẹ đáp ứng ngay, đôi khi cha mẹ không lưu tâm đến nội dung. Con cái được tự do đổi đài truyền hình mà chúng ưa thích, cho dù đài có bạo loạn hay cả bạo dâm. Chúng ta đừng buông con cái cho những kẻ không có lương tâm đạo đức chỉ giáo. Cách thu hút thị hiếu con trẻ qua sự quảng cáo của các nhà thương mại không luôn là tốt. Chúng ta luôn tỉnh thức và canh chừng đừng để con cái rơi vào cạm bẫy của sự xấu. Cha mẹ dù là kẻ xấu cũng muốn cho con cái của tốt lành. Chúa Giêsu dậy: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?"(Lk 11:13).

4.     Sự Khôn Ngoan của Trẻ Thơ

Không phải những người trí thức hay học cao hiểu rộng mà có thể nắm bắt được chân lý Nước trời. Khi Chúa xuống trần, Ngài đã muốn tỏ mình ra cho các mục đồng đơn sơ và nghèo nàn. Chính Chúa chọn các tông đồ là những người ít học và không tham dự trường lớp và không bằng cấp. Các Tông đồ chỉ là những người chài lưới sống đời đơn sơ và mộc mạc ven biển. Chúa đã yêu thương và mặc khải chân lý Nước trời cho họ. Lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn (Mt.11:25). Sự khôn ngoan của thế gian là sự khôn ngoan trần thế dựa trên những kho tàng tri thức của nhau để tự đánh giá mình. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa là sự khôn ngoan của ơn cứu độ và giải thoát.

Sự khôn ngoan của trẻ thơ là sự khôn ngoan trong sự phó thác hoàn toàn theo thánh ý Chúa. Đón nhận ý Chúa với tất cả sự tin tưởng và lòng cậy trông. Không cậy dựa vào sự hiểu biết và sức lực của mình, nhưng tin vào quyền năng của Chúa. Chúa Giêsu nói rằng:” Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào."(Lk 18:17). Nhìn xem trẻ thơ tin tưởng nơi cha mẹ thế nào, thì chúng ta cũng đặt trọn niềm cậy trông nơi Chúa như thế. Quan sát hai bố con đang đi dạo quanh hàng xóm. Kìa, có một con chó chạy tới xủa to và gầm gừ, em bé sợ hãi quá vội chạy nhảy lên lòng của bố. Em cảm thấy sự bảo vệ an toàn. Đó chính là thái độ của trẻ thật đơn sơ và dễ mến.

5.     Lạm Dụng Trẻ

Trong những tháng năm qua, chúng ta nghe nhiều về các vụ lạm dụng tình dục trẻ em. Những tố cáo lạm dụng như những gương mù, gương xấu đã được phơi bày trên truyền thanh, truyền hình, báo chí, mạng lưới và đâu đâu cũng được nhắc đến để kết án. Trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội, vấn đề đã nổi cộm và nhức nhối. Sự thật không thể dấu giếm. Sự thật đau lòng đã được mổ xẻ trên công cộng. Hơn bao giờ hết, sự lạm dụng tình dục trẻ em là một lầm lỗi không thể dung tha. Sự lạm dụng này đã làm mất đi sự ngây thơ trong trắng và tính bản thiện nơi trẻ thơ. Gần hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ dân chúng rằng: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mk 9:42). Tại sao lại có những người đang tâm hủy hoại tuổi thơ vô tội? Để được thành nhân cần cả trăm năm để giáo dục và trồng người. Dập tắt hay hủy hoại một sự sống trẻ thật dễ dàng.

Đau lòng hơn nữa là ngay chính trong lòng Giáo Hội, một số các giáo sĩ đã rơi vào các cạm bẫy này. Giáo Hội đã phải bước vào một thời kỳ khổ giá để đền tội vì sự yếu hèn này của con cái mình. Sự thật về sự lạm dụng không thể chối cãi. Sự thật này không thể che đậy. Sự thật này không có lý do để bào chữa. Cho dù con số phần trăm thật ít trong hàng giáo sĩ, nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể làm ngơ. Giáo Hội đã đau khổ quá nhiều. Có nhiều Địa Phận đã phải phá sản vì phải đền bù cho các nạn nhân. Đúng thật, đã có những lạm dụng đòi bồi thường và làm tiền một cách trắng trợn của một số người. Nhưng chúng ta biết sự lạm dụng là có thật. Những giáo sĩ đã sa phạm phải trả lẽ về mình trước mặt Chúa. Họ phải chịu hình phạt và tự sám hối ăn năn. Chúng ta phải yêu mến và đón nhận trẻ nhỏ như đón nhận các thiên thần của Chúa: “Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”(Mt 18:2-3).

6.     Nước Trời của Trẻ Thơ

Khi còn trẻ, ai cũng mong cho mau lớn, ước thêm tuổi, thích sớm được vào trường và đôi khi còn muốn nhảy lớp cho mau chóng được ra trường. Ra trường rồi lại lo lăn xả vào công ăn việc làm và xây dựng hạnh phúc gia đình. Cứ thế ngày qua tháng lại, tuổi về chiều lúc nào không biết. Khi chúng ta nhìn lại cuộc đời, ngày tháng của tuổi thơ đã qua mất rồi. Nhưng dù có bao nhiêu tuổi đời, tâm hồn của chúng ta vẫn có thể trở nên như tâm hồn trẻ nhỏ: Chúa Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời (Mt 18:2-3).Làm sao có thể trở lại mà nên như trẻ nhỏ được. Điều quan trọng là mỗi người hãy sống trọn vẹn phút giây hiện tại. Hãy vui với tuổi thơ của con cái trong phút giây này. Trẻ thơ chính là các thiên thần đang hiện diện bên cạnh làm cho cuộc đời chúng ta thêm niềm vui và ý nghĩa. Chúng ta hãy bình thản sống trong an lạc. Vui với cái hiện có. Khi chúng ta đã bước vào qũy đạo cuộc sống, nó sẽ cứ xoay hoài làm cho chúng ta choáng ngợp và âu lo. Thế là chúng ta đánh mất dần nụ cười tươi mát của tuổi thơ. Chúa Giêsu nói nếu chúng ta không trở nên như trẻ thơ, chúng ta không được vào Nước Trời. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Chúa Giêsu lại mách nước cho chúng ta: Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18:4). 

Nhìn lại khi tuổi đời xế bóng, chúng ta đã có nhiều thứ. Có chức vị và bằng cấp. Có sự hiểu biết và kinh nghiệm. Có nhà có cửa, có công ăn việc làm. Có con cái và cháu chắt. Có của ăn và của để rồi. Chúng ta định gối đầu vào đâu cho những tháng ngày sắp tới? Cậy dựa vào các bảo hiểm của cải vật chất, sẽ không có bảo đảm vững bền. Dựa dẫm vào khả năng con người và văn minh khoa học kỹ thuật, cũng không an toàn. Cách tốt nhất là chúng ta hãy tự hạ để nhận biết sự quan phòng và quyền năng của Chúa. Hãy phó thác cuộc đời nơi vòng tay nhân lành của Chúa, chúng ta sẽ tìm được con đường giải thoát.

Như lời kết, Chúa Giêsu đã vào đời qua tiến trình của một trẻ thơ. Chúa cũng đã nằm trong nôi. Chúa được Đức Mẹ Maria ẵm bế trong lòng. Chúa lớn lên trong tình thương yêu chăm sóc của cha mẹ. Chúa Giêsu rất yêu mến trẻ thơ. Chúa xác định rằng Nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng. Muốn được vào hưởng niềm vui Nước Trời, chúng ta không thể đi con đường khác. Trước tôn nhan Chúa, chúng ta cũng chỉ là một thụ tạo ngây ngô và yếu đuối mỏng dòn. Chúng ta hãy phó thác cuộc đời của chúng ta trong sự quan phòng của Chúa. Hãy đưa tay cho Chúa dắt đi, chúng ta sẽ đạt tới bến bình an.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng  -   Bronx, New York

 
VỀ MỤC LỤC
ĐÃ ĐẾN LÚC CÁC GIÁM MỤC CẦN CÓ CÁC VỊ CỐ VẤN RIÊNG

 

Các vị linh mục là những bậc đáng kính trước mặt giáo dân, huống chi các giám mục. Vì thế, giáo dân cảm thấy hoang mang khi biết giám mục của mình có những hành động hay lời nói bất cẩn, thậm chí viết thư mục tử có nhiều điều khó chấp nhận hoặc không phù hợp.

Giáo dân cảm thấy như bị dội nước muối vào mặt khi biết giám mục của Giáo Hội bị người của nhà cầm quyền bảo là “giám mục nói dối”. Cũng như giáo dân bị sốc khi nghe giám mục giảng hùng hồn để kết tội anh em mình là gian dối, là “nói nửa sự thật” khi họ không hề nói dối. Có vị nổi hứng bênh vực màu này chê bai màu nọ làm giáo dân chưng hửng. Còn đâu hình ảnh cao quí, uy nghi với mão gậy và còn đâu hình ảnh của vị tông đồ bảo vệ đức tin?

Giáo dân cũng bật ngửa khi vị giám mục đáng kính của họ bị dẫn đến nơi ngài không muốn đến hay muốn đến nơi các ngài không được giáo dân mời.

Mới đây một vị giám mục viết đại ý tình trạng sa sút ngày nay trong xã hội và sự xáo trộn mọi phương diện là do “đổi mới”, do tiếp xúc với phương Tây (có lẽ ông muốn nói nếu giữ nguyên tình trạng Việt nam trước 1980 thì sẽ là thiên đàng rồi, vì nền giáo dục XHCN là tiên tiến mà). Tôi đọc mà nghẹn ngào cho cái nhìn của vị giám mục.

Giáo dân cũng cảm thấy thất vọng khi những lá thư mục tử được gửi đi với những lời lẽ kết án nhóm này nhóm nọ, với những lý lẽ rất ngây thơ về các vấn đề xã hội và những giải trình vụng về lúng túng về việc xử lý các vấn đề trong Giáo Hội.

Trừ những vị giám mục đã lỡ bước sa chân không thể nói theo ý mình (giả sử là có), còn đa phần các vị viết hay nói lỡ lời là do trong tình trạng bối rối, lúng túng hay sợ hãi mà ơn khôn ngoan và can đảm Chúa Thánh Thần ban cho các ngài phải vất vả chạy theo các ngài.

Do vậy chúng tôi nghĩ rằng đã đến lúc các Giám mục cần có những người cố vấn riêng. Dĩ nhiên giám mục nào cũng đã có các linh mục trong Hội Đồng Tư Vấn. Nhưng trong thời gian qua, những vị linh mục này dù đã cố gắng rất nhiều nhưng cũng còn nhiều yếu tố khiến các ngài hoặc là không thể nói tiếng của chân lý hoặc là nói yếu ớt, khi đến tai giám mục thì tiếng nói nghe cũng thều thào.

Trong xã hội dân sự, người ta làm gì trong lãnh vực nào cũng cần đến các tư vấn. Những người tư vấn hay cố vấn không phải là có khả năng lãnh đạo hay tài giỏi hơn nhà lãnh đạo, nhưng họ có hai ưu thế: một là nghiên cứu chuyên biệt một lãnh vực cho sâu rộng, và hai là họ đứng ngoài nên bình tĩnh, khách quan khi phán đoán và đưa ý kiến.

Trong qui luật các Tiểu chủng viện miền Nam trước năm 1975 có khẳng định “Linh mục là thầy dạy muôn dân”, điều này vẫn đúng cho đến bây giờ. Và các giám mục hơn thế nữa là thầy dạy trong Hội Thánh. Nhưng phải hiểu rằng các ngài là thầy dạy về tín lý và luân lý, còn về các lãnh vực khác ở đời, các ngài có thể thành thạo một hai lãnh vực chuyên môn thôi (thậm chí có vị không có chuyên môn nào, nhưng điều ấy không đáng nói vì ngoài phận sự các ngài).

Nếu các vị giám mục có cố vấn ở các lãnh vực như quản trị, xây dựng, luật pháp, tài chánh, giáo dục, y khoa…, các ngài sẽ đỡ mất thời gian và đỡ lúng túng trong mọi việc. Các cố vấn sẽ giúp các ngài nhiều mặt, nhất là khi phải tiếp xúc với nhà cầm quyền hay các nhóm, các đoàn thể. Họ sẽ đọc và góp ý cho các ngài khi các ngài soạn thảo thư mục vụ hay các văn bản quan trọng khác. Và được như thế, những điều mà bàn dân thiên hạ lâu nay xầm xì sẽ giảm đi rất nhiều.

Chúng tôi biết ở nhiều nơi các giám mục cũng có hỏi ý kiến giáo dân, nhưng chỉ là hỏi để tham khảo chứ họ chưa đóng vai trò cố vấn thật sự cho các ngài.

Những có vấn cho các ngài dĩ nhiên phải là những người chuyên môn về một lãnh vực rõ rệt, hiểu biết giáo lý, có ý kiến khôn ngoan, yêu mến Giáo Hội và trung thành với Giáo Hội. Thiếu gì những ông chuyên môn nhưng lái chủ chăn đi vòng vòng, cuối cùng chủ chăn lúc đi trước, lúc đi sau, lúc đi tới đi lui.

Những ý kiến này có thể là “chuyện nhỏ” với các chủ chăn. Nhỏ nhưng thật ra không nhỏ vì Huấn quyền Hội Thánh đã nhấn mạnh nguyên tắc bổ trợ như một trong bốn nền tảng của ngôi nhà sự sống. Kính xin các vị chủ chăn vì lòng yêu mến dân Chúa mà vui lòng xem xét, để những quyết định của các ngài sẽ gần gũi với dân Chúa và làm cho dân Chúa an tâm hơn.

Gioan Lê Quang Vinh

Mời thăm www.giaoducconggiao.net

VỀ MỤC LỤC
THƯ CHỊ THÁNH TÊRÊXA VIẾT CHO NGƯỜI ANH EM CHỦNG SINH (1)
  

Năm thánh hóa linh mục đang dần dần kết thúc để đẩy các linh mục của Chúa vững bước hành trình trên nẻo đường hy vọng. Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả, cách riêng là anh em linh mục, 6 lá thư của Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu viết cho Cha Roulland và 11 lá thư cho một thầy đại chủng sinh, người mà sau khi Chị Thánh qua đời mới được thụ phong linh mục: Cha Bellière.

Năm thánh hóa linh mục cũng mời gọi chủng ta cầu nguyện cho các linh mục tương lai. Để có những linh mục thánh, chúng ta cần có những chủng sinh nồng nàn khát khao nên thánh như Thầy Chí Thánh.

Maurice-Marie-Louis Bellière (1874-1907) nhỏ hơn Têrêxa 01 tuổi và là người anh em thiêng liêng đầu tiên của Chị Thánh (1895); vào Tập Viện Dòng Trắng 29/9/1897, tức là trước khi Têrêxa qua đời 01 ngày. Bellière thụ phong LM vào năm 1901, sau đó đi tông đồ tại Nyassa từ 1902 đến 1905, tới năm 1906 thì quay về lại Pháp; Có tất cả là 11 thư trao đổi với Têrêxa từ 21/10/1896 đến 25/8/1897. (Trích từ Petit Dictionnaire des Noms Propres; Oeuvres Complètes; Textes et Dernières Paroles, nxb Cerf 1992 -Chú thich thêm của ND -)

Dưới đây xin giới thiệu hai thư đầu trong những thư Chị Thánh gởi thầy Bellière, do ông Nôbertô Thái Văn Hiến dịch.

Lm Trăng Thập Tự

Thư 198: Gửi Thầy đại chủng sinh Maurice Bellière.

G.M.G.T

Giêsu U 

Cát Minh Lisieux, 21 tháng 9 năm 1896

Kính thăm Thầy,

Mẹ Đáng Kính của chúng con bị ốm, nên đã giao cho con nhiệm vụ phúc đáp thư của Thầy, con lấy làm tiếc vì Thầy phải chịu thiệt mất những lời thánh thiện mà lẽ ra Mẹ Nhân Lành sẽ nói với Thầy, nhưng con rất sung sướng vì được làm người phiên dịch để chuyển lại cho Thầy niềm hân hoan của Mẹ khi biết công việc của Chúa vừa thực hiện trong tâm hồn Thầy, Mẹ sẽ tiếp tục cầu nguyện để Chúa hoàn thành công trình thánh Thiện của Ngài trong Thầy.

Thưa Thầy kính mến, con nghĩ là chẳng ích gì khi nói với Thầy về cái phần đáng kể mà con chia sẻ với hạnh phúc của Mẹ Đáng Kính của chúng con. Lá thư vào tháng bảy của Thầy đã khiến con hết sức buồn lòng [1]; chỉ góp được chút ít lòng hăng hái của mình vào những chiến đấu mà Thầy phải lâm vào, con không ngừng nài xin cho Thầy sự phù hộ độ trì của Nữ Vương Nhân Hậu các Thánh Tông Đồ, cũng như niềm an ủi đối với con thật lớn lao khi nhận lấy như là bó hoa dâng tiến để tin chắc những lời cầu nguyện của con [vo] đã được chuẩn nhận [2]

Bây giờ thì giông tố đã yên, con cảm tạ Chúa Nhân Lành đã giúp Thầy vượt qua một cách an lành, vì đọc thấy trong các Sách Thánh mà chúng con đang có đây những lời tuyệt diệu này: “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng thử thách” (Gc. 1,12). Và còn nữa: “Ai không từng trải thì hiểu biết nông cạn” (Hc. 34,10)… Thật vậy khi Chúa Giêsu kêu gọi một linh hồn để dẫn dắt, để cứu nhiều linh hồn khác, thì Ngài cần làm cho linh hồn ấy trải nghiệm những cám dỗ và thử thách của cuộc đời. Bởi Ngài đã ban cho Thầy hồng ân chiến thắng khải hoàn, nên con hy vọng, thưa Thầy kính mến, Giêsu hiền hậu của chúng ta sẽ thực hiện những ước ao lớn của Thầy. Con cầu xin Ngài cho Thầy, không phải chỉ trở nên một nhà truyền giáo tốt lành mà còn là một vị thánh rực cháy tình yêu Thiên Chúa và các linh hồn; con nài xin Thầy cũng cầu cho con có được tình yêu ấy để con có thể góp sức với Thầy trong công việc tông đồ. Như Thầy đã biết, một nữ tu Cát Minh sẽ không trở nên tông đồ bằng cách rời xa mục đích ơn gọi của mình[3] và thôi không làm con cái của người Mẹ như thiên thần là Thánh Têrêxa hằng ước ao dâng hiến hàng ngàn cuộc đời để cứu dù chỉ một linh hồn[4].

Thưa Thầy kính mến, con không nghi ngờ việc Thầy sẽ sẵn lòng kết hợp những lời cầu nguyện của Thầy với của con để Chúa chúng ta chữa lành cho Mẹ Đáng Kính của chúng con.

Trong Thánh Tâm của Giêsu và của Mẹ Maria con sẽ hằng luôn sung sướng để nói con là:

Người chị em của Thầy

Têrêxa Hài Đồng Giêsu Thánh Nhan

Rel. carm. ind.

Thư 213: Gửi Thầy đại chủng sinh Bellière.

G.M.G.T

Cát Minh Lisieux

Giêsu V 26 tháng 12 năm 1896

Thưa thầy kính mến,

Con đã muốn có thể trả lời thầy sớm hơn nhưng luật dòng Cát Minh không cho phép viết hoặc nhận thư trong mùa Vọng, tuy nhiên Mẹ Đáng Kính đã chuẩn cho con được đọc thư Thầy, vì hiểu rằng Thầy đang cần được nâng đỡ đặc biệt bằng lời cầu nguyện.

Thưa Thầy đáng kính, cam đoan với Thầy là con sẽ làm hết khả năng để cầu xin cho Thầy được những hồng ân mà Thầy cần, những hồng ân ấy dĩ nhiên sẽ được ban cho Thầy bởi chẳng bao giờ Chúa lại đòi hỏi chúng ta những hy sinh vượt quá sức chúng ta[5]. Quả thật, đôi lúc Đấng Cứu Độ linh thánh cũng làm cho chúng ta nếm mùi chén đắng mà Ngài chìa ra cho linh hồn chúng ta. Khi Ngài đòi hỏi phải hy sinh tất cả những gì thiết thân nhân trên trần gian này, thì điều đó không thể thực hiện nếu không có một ơn vô cùng đặc biệt được kêu xin như Ngài trong vườn hấp hối: “Lạy Cha, xin hãy cất chén này xa con… nhưng [1vo] đừng theo ý con, mà hãy theo ý Cha…” (Lc 22,42).

Thật là an tâm khi nghĩ rằng Giêsu, Vị Thiên Chúa hùng mạnh[6] (Is. 9,5), đã nếm mùi những yếu đuối của chúng ta, đã run rẩy khi nhìn thấy chén đắng, chén mà ngày xưa Ngài đã tha thiết muốn uống. (Lc 22,15)

Thưa thầy đáng kính, phần của thầy thật tuyệt diệu bởi chính Chúa đã chọn lấy phần ấy và cũng chính Ngài đã nhấp môi trước tiên vào chén mà Ngài đưa ra cho thầy (Mt 20,23)

Một vị Thánh đã nói: Vinh dự lớn nhất mà Thiên Chúa có thể làm cho một linh hồn, không phải là ban cho nó thật nhiều, mà là đòi hỏi nhiều nơi nó [7]! Như vậy, Giêsu đang đối xử với thầy một cách ưu ái. Ngài đã từng muốn thầy bắt đầu công việc truyền giáo và chịu đau khổ để cứu các linh hồn. Chẳng phải là bằng cách chịu đau đớn, chịu chết đi mà Ngài đã chuộc lấy thế gian đó sao?… Con biết là thầy khát khao hạnh phúc được hy sinh cuộc đời mình cho Thầy chí thánh, nhưng phúc tử đạo của tâm hồn cũng phong nhiêu như việc đổ máu mình ra và ngay từ bây giờ phúc tử đạo ấy đã dành cho thầy rồi đó; Vì thế mà con có lý khi nói phần của thầy thật tuyệt diệu, xứng đáng là tông đồ Chúa Kitô.

Thưa thầy đáng kính, thầy đến tìm kiếm sự an ủi nơi kẻ mà Giêsu đã ban cho thầy kết làm người chị em và thầy có quyền làm như thế. Vì Mẹ đáng Kính của chúng con cho phép con viết thư cho thầy, nên con muốn đáp trả lại nhiệm vụ ngọt ngào đã được trao cho con, nhưng con cảm thấy phương thế bảo đảm nhất để đạt đến mục đích của mình, chính là cầu nguyện và chịu đau khổ…

[2ro] Cùng nhau làm việc vì phần rỗi các linh hồn, chúng ta chỉ có một ngày duy nhất là cuộc sống này để cứu họ và chứng tỏ tình yêu của chúng ta với Chúa. Ngày mai của hôm nay sẽ là vĩnh cửu, bấy giờ Giêsu sẽ ban cho thầy gấp trăm (Mt 19,29) những niềm vui sướng vô cùng ngọt ngào và chính đáng vì thầy chịu hy sinh vì Ngài, Ngài biết sự lớn rộng của những hy sinh nơi thầy, Ngài biết sự đau khổ của những người thân yêu của thầy còn làm tăng thêm sự đau khổ của thầy hơn nữa vì chính Ngài cũng đã trải qua cuộc tử đạo ấy; để cứu linh hồn chúng ta, Ngài đã rời bỏ Mẹ mình, đã nhìn thấy Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm, đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25), lòng bị lưỡi gươm đâm thâu đau đớn (Lc 2, 25), con cũng hy vọng Thiên Chúa Cứu Độ sẽ an ủi người Mẹ nhân lành của thầy, và con luôn bền bỉ kêu xin Ngài sự ấy. Ôi! Nếu Thầy Chí thánh để cho những ai mà thầy vừa rời bỏ vì tình yêu của Ngài nhìn thấy vinh quang Ngài dành sẵn cho thầy, vô số các linh hồn mà sẽ làm thành đoàn tuỳ tùng với thầy trên Thiên Đàng, thì như vậy họ đã được thưởng công bởi sự hy sinh lớn lao mà họ phải chịu khi thầy lìa xa họ.

Mẹ đáng kính vẫn còn đau đớn, tuy mấy ngày qua Mẹ có cảm thấy đỡ hơn đôi chút, con hy vọng Hài Đồng Giêsu sẽ lại ban cho Mẹ những sức mạnh để cống hiến vì vinh quang của Ngài. Ngài Mẹ Đáng Kính ấy gửi cho thầy ảnh Thánh Phanxicô khó khăn để ngài chỉ bảo thầy cách thế tìm gặp được niềm vui giữa những thử thách và chiến đấu trong cuộc sống.

Thưa thầy Đáng kính, con hy vọng thầy sẵn lòng [2vo] tiếp tục cầu nguyện cho con vốn không phải là thiên thần như thầy tưởng, mà là một nữ tu Cát Minh hết sức bé mọn và bất toàn, tuy nhiên, bất chấp sự đáng thương của mình, con vẫn cứ ươc ao được như thầy, làm việc vì vinh quang Thiên Chúa Nhân Lành.

Chúng ta hãy hiệp nhất trong lời cầu nguyện và sự đau khổ bên máng cỏ Giêsu.

Người chị em bất xứng của thầy

Têrêxa Hài Đồng Giêsu Thánh Nhan

 Rel. carm. ind.

 

[1] Từ Caen nơi mà từ đó để nhập ngũ từ tháng 11 năm 1895, Maurice Bellière, vào ngày 21/7/1896, đã gửi một tin nhắn đầy tuyệt vọng cho mẹ bề trên Dòng Cát Minh: “Con đã bị rơi vào một tình cảnh thảm hại – và bằng mọi giá, chị yêu quí của con, Têrêxa Hài Đồng Giêsu, phải kéo bằng được con ra khỏi đó – Nếu cần thì chị ấy cứ làm mạnh với Thiên Đàng đi.” (TTTQ, tr. 871

[2] Ngày 24 tháng 10, hôm trước lễ mừng kính Mẹ Thánh Têrêxa Avila, Thầy Bellière đã viết cho Mẹ Marie de Gonzague như sau: “Xin cảm ơn, Mẹ nhân lành, về sự cứu giúp mà Mẹ đã dành cho con trong một lúc tuyệt vọng – Bão tố đã qua đi, bình an đã trở lại và người lính đáng thương lại được trở thành đại chủng sinh như ngày trước.” Thầy còn viết thêm trên một tấm thiếp, nói về Têrêxa: “Ngày mai là ngày lễ của chị ấy” (TTTQ. Tr. 903).

[3] Xem Thánh Têrêxa Avila, Đường hoàn thiện, ch. III

[4] Sđd, ch I, Têrêxa đã chép lại châm ngôn ấy trên cuộn giấy mà Chị cầm trên tay trong bức ảnh chụp vào tháng 7 năm 1896 (VTL.(Gương mặt Têrêxa Lisieux) Số 29; xem TTTQ tr. 873+e). Chị Thánh đã dùng lại nó cùng thời điểm ấy trong PN (Thơ có đánh số) 35, khổ 4.

[5] Thầy Bellière viết cho Têrêxa vào ngày 28 tháng 11 năm 1896 như sau: “Thầy Chí Thánh đang gửi đến cho em một thử thách nặng nề – như Ngài vẫn làm cho những ai Ngài yêu mến, còn em thì lại quá yếu đuối – Chắc chắn là trong vài ngày nữa, Ngài sẽ sai em đến chủng viện Truyền Giáo Châu Phi - Cuối cùng rồi ước ao của em cũng sắp được thực hiện – nhưng em đã chiến đấu rất nhiều – em đã cắt đứt những tình cảm thân thương và tha thiết nhất của mình - những thói quen thoải mái dịu dàng và cả thích thú nữa – toàn bộ một quá khứ tươi cười và hạnh phúc vẫn còn thôi thúc em mãnh liệt – em cần sức mạnh, chị thân quí ơi” (Thư trao đổi (LC) 172. Chúng ta có phần tóm lược thư trả lời của Têrêxa trong sổ nháp, cho thấy cách làm việc của Chị Thánh.

[6] Câu Thánh Kinh thường gặp thấy lại trong phụng vụ mừng lễ Giáng Sinh.

[7] Cha Pichon; xem Thư 172.

VỀ MỤC LỤC
HIỆP SĨ MÙ…XUẤT HIỆN TRONG ĐÊM HỘI NGỘ KHÓA 65/45 NĂM KỶ-NIỆM
 

Hiệp sĩ Mù là một cựu SVSQ phi hành khóa 65. Anh từng du học Hoa Kỳ ngành Trực Thăng năm 1967. Năm 1972, Anh bi thương “mù cả hai mắt” trong trận chiến tự vệ làn sóng việt cộng tràn qua vĩ tuyến 17 tại mặt trận Quảng Trị. Anh đã sống 38 năm trong bóng tối mênh mông tại VN. Năm nay nhân dịp 45 năm Hội ngộ của liên khóa 65. Với sự giúp đỡ của các NT và các Bạn đồng khóa. Anh đã có mặt trong một đêm hội ngộ có thể nói là “hi hữu” trong cuộc đời của Anh.

Cách đây hơn 5 năm, nhờ mục nhắn tin trên Cánh Thép, các Bạn trong liên khóa đã liên lạc được với Anh và các KQ Huỳnh quốc Hải, Nguyễn thế Hải và nhiều KQ khác đã về VN thăm Anh hoặc điện thoại thăm hỏi trong tình nghĩa KQ “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”. Vì vậy mà một số KQ như Phan kim Thạch trưởng khóa 65E , Lê văn Sùng tự Sùng Combat khóa 65F và nhiều Anh Em khác nữa trong dịp 43 năm hội ngộ tại Washington DC đã nhen nhúm một ý định mời các Bạn trong liên khóa 65 trên khắp thế giới và đặc biệt còn lại ở VN tham gia hội ngộ trong ngày kỷ niệm 45 năm hội ngộ.

Như lời tường thuật của một phụ nữ VN đang sống bên Úc Châu, KQ …”Hiệp sĩ Mù”…, dù không còn thấy trời xanh và cây xanh đã 38 năm, nhưng Anh không bi quan buồn nản về cuộc đời kém may mắn của riêng mình. Anh đã sống cuộc đời ăn chay trường và cất bước lên đường trong công việc nghĩa. Với cặp mắt mù lòa, anh đã học được nghề “châm cứu” của đông y để chữa trị cho những người bệnh hoạn. Những tỉnh miền Tây Nam phần không ai là không biết đến danh thầy H. mù trong những trường hợp bệnh hoạn. Việc nghĩa không phải chỉ có vậy, người cựu SVSQ KQ khóa 65 còn thường xuyên thăm hỏi và giúp đỡ các thương phế binh VNCH khác nữa.

Chưa hết !, hàng tháng, Ông Thầy mù nghĩa hiệp này còn kiếm ra những bao gạo 9 ký…đi xe ôm để đem đến tận nhà những ông già bà cả nghèo đói giao tận tay cho họ trong nụ cười đầy tình bác ái, đầy tình người trong một nghĩa cử cao đẹp “khó thấy được” trong thời đại gạo châu củi quế này. Vùng nào thiếu nước vệ sinh để xử dụng trong tình trạng ô nhiễm môi trướng ở VN hiện nay, Thầy H. lại kiếm tiền đào ngay một cái giếng nước để bà con chòm xóm có nước sạch sẽ xử dụng. Những phụ nữ yếu đuối nghèo đói, gặp khó khăn trong các trướng hợp sinh đẻ hay bệnh hoạn, Thầy H. biết được là Thầy mau mắn xuất hiện để gọi là của ít lòng nhiều, giúp đở ngay tức thời như một mũi thuốc hồi sinh cho những con người không còn tìm đâu ra nơi cứu giúp…

Đi xa hơn nữa, Thầy H. lại cũng không quên nghĩ đến những  người phong cùi … Khi có phương tiện, Thầy xuất hiện bên họ để đưa tận tay Họ chút tình người dành cho những người khốn khổ này…Trong một DVD do một người Bạn về VN đến thăm đem sang và gửi đến cho mọi người…Hiệp sĩ mù…tức Hiệp sĩ “… không thấy” nhưng “không không quên” luôn nhắc đến những kỷ niệm thân thương 45 năm trước…Anh nhắc đến những kỷ niệm xưa với những người Bạn cũ như nhắc đến những sự việc vừa mới xẩy ra hôm qua …Những chuyện của cán bộ Ngô sỉ …”kèn” …phạt đàn em tên Thơ đến phát xỉu ! nhe hàm răng hô lại tưởng đàn em dỡn mặt cán bộ. Nhắc tới Đinh xuân An tự Đinh phạn xá vì An làm cán bộ phạn xá !. Nhắc đến em bé Bụ Bẫm Nguyễn tiến Vinh to cao nhưng lại đẹp trai “như con gái”. Nhắc đến Hải nhái vì “nhẩy nhẹ nhàng nhanh nhẹn như con nhái” ở bãi biển Nha Trang. Nhắc đến Hùng bò chân bước thấp bước cao mà vẫn oanh oanh liệt liệt trở thành phi công vận tải xuất thân trường bay Mỹ Quốc …mới là chuyện hi hĩu trong đời…Anh nhắc đến tên cúng cơm kèm theo nickname như nhắc đến những Anh Em thân thương ruột thịt của mình…

Đôi mắt tuy mù lòa non nửa thế kỷ, nhưng tâm hồn và lương tâm Anh không lòa…và thật trong sáng. Ông Thầy mù vẫn mò mẫm đi bốc mộ và cải táng cho một phi công C119 bị rơi trong ngày 30 tháng tư ở VN. Anh còn mò mẫm để biết được cái áo bay của Bạn mình đã mục nát nhưng cái miếng “bằng ny-lông” để gắn ba bông mai vàng của Đại Úy Phi Công Huỳnh đình Chiến vẫn còn sờ thấy được. Các Bạn liên khóa 65 và các Bạn phi công vận tải C119 nào muốn biết thêm chi tiết về KQ Huỳnh đình Chiến thì cứ tự nhiên liên lạc với H. mù hiện đang mò mẫm trong bóng tối cuộc đời và đang du lịch trên đất Mỹ…đến tháng 9 năm 2010 mới trở về lại VN qua số điện thoại di động (714) 548-2956.

Cách đây hơn 100 ngày, người cựu SVSQ Không Quân mù lòa  này còn cùng Bạn KQ khác tên Phan tấn Tước…mò mẫm xuống tận Vĩnh Long Việt Nam để tham dự lễ hỏa táng “hiền thê của KQ C123 Trần minh Trị” qua đời tại VN cho đúng với phương châm của KQ “không bỏ Anh Em, không bỏ bạn bè”. Để rồi cả hai người, như một
phép lạ, chỉ 100 ngày sau Phan tấn Tước và Thầy “Mù Vó”…đã lại hội ngộ với Anh Em trên đất Mỹ !!!.

Trăm cái…tai nghe không bằng một cái mắt thấy…Kẻ viết những dòng chữ này muốn thấy tận mắt những lời đồn đại của phóng viên ở Úc Châu cũng như nhửng thông tin của bạn hữu…ra sao nên :Tháng 10 năm 2009, người viết đã làm một chuyến về “miền Tây” VN cho biết sự tình. Chỉ thông báo ngày giờ xuống thăm Hiệp Sĩ … nhưng khi ra đến bến xe “tốc hành miền Tây”…đã gặp ngạc nhiên ngay tức khắc !!!...
·        Xin Anh hai vé cho tôi xuống ………………………
·        Xin mời Anh Chị lên ngồi hàng ghế sau tài xế…Ông Thầy đã dặn chúng tôi đón tiếp Anh Chị và đem Anh Chị đến tận nhà Thầy…Từ bé đến lớn…rồi bây giờ gần thất thập cổ lai hi, tôi chưa hề bao giờ được đi xe đò một cách long trọng như vậy…Tôi vừa ngạc nhiên lại vô cùng thắc mắc vì những tiếp đãi nồng hậu của người tài xế cũng như người lơ xe !.Như hiểu được những thắc mắc của tôi người lơ xe vừa thân mật chuyện trò vừa giải thích :     

Cô chú không biết chứ…cả tỉnh đó và những vùng lân cận…không ai là không biết đến Ông Thầy mù “phước thiện đó”…

Chiếc xe vùn vụt chuyển bánh…Qua Bắc Cần Thơ rồi quẹo phải chừng 2 tiếng, chúng tôi được xe tốc hành đem đến trước nhà Thầy…Thầy đã đợi sẵn. Tôi ngậm ngùi nhìn người Bạn tôi đang ngồi trên cái phản gỗ cũ kỹ bên cạnh là vợ Thầy, gầy gò ốm yếu “tay nọ đỡ tay kia” vì một tay đã không còn cử động sau lần tai biến mạch máu não !!!.Tôi ở lại đó 2 ngày và tôi hỏi thẳng Bạn tôi về cuộc sống cá nhân, gia đình cũng như những công cuộc phước thiện mà báo chí bên Úc đã đăng tải qua bài viết của Cô Thu Hoa…Cô Thu hoa thật ra chỉ là một nhà từ thiện vế Miền Tây làm việc thiện chứ không phải là một phóng viên như tôi nghĩ. Tôi hỏi :
·         Vậy chứ bạn kiếm đâu ra tiền để chi phí cho nhiều, rất nhiều việc từ thiện như vậy ?
Bạn tôi cười hề hề giải thích :
·        Có gì đâu Anh…Bạn bè khắp nơi biết tôi “hành hiệp trong giang hồ” nên họ cho tôi tiền bạc. Tôi ăn chay trường, vợ tôi cũng ăn chay như tôi nên cuộc sống chúng tôi không có nhu cầu tốn phí chỉ cần khúc bánh mì chay với 1 chai
nước là xong một bữa... Thế nên chúng tôi mới có phương tiện làm công tác từ thiện. Lại nữa và quan trọng hơn cả là chúng tôi, những người “bạn đạo” cùng một lý tưởng “hành hiệp cứu đời” nên chúng tôi thường thường cùng nhau lo cho những công tác phước thiện định kỳ hay đặc biệt …

Trong dịp này, chúng tôi có gặp một Bác Sĩ y khoa đang hành nghề trong tỉnh lại có nhà thuốc Tây gần nhà Thầy…và cũng là Bạn Đạo với Thầy. Vẻ cung kính của Ông Bác Sĩ đối với Thầy cho chúng tôi biết thêm là những việc làm đầy tình Bác Ái của Bạn tôi đã đánh động đến lương tâm con người và mọi người đều cùng Thầy…chung sức trong các công tác như tôi được biết ở phần trên.

Trong một bài viết kế tiếp, tôi sẽ kèm theo những hình ảnh của Bạn tôi, Hiệp Sĩ Mù…người đang hành hiệp tại miền Tây VN trong những năm vừa qua ( Bài này tôi viết khi đang ở Cali sau đêm hội ngộ của liên khóa 65/45 năm hội ngộ tại Orange County)…

Sự xuất hiện của Hiệp sĩ mù…không phải dễ dàng như người ta “đi shopping !!!”. Niên trưởng KQ Phạm đình Khuông khóa 65 A với sự hỗ trợ của Tổng Hội Không Lực VNCH đã hai lần làm đi làm lại giấy mời cộng với cái Passport đã từng du học trực thăng năm 1967 của Thầy…mới được phái đoàn Mỹ chấp thuận cho “chiếu khán du
lịch Hoa Kỳ trong 3 tháng”.Các KQ và mạnh thường quân ẩn danh sau đây đã đóng góp kẻ ít người nhiều trước
ngày hội ngộ cả vài tháng mới có đủ chi phí vé phi cơ cho Hiệp sĩ sang gặp lại
bạn bè :


-      KQ Trần minh Trị C123
-      Chị quả phụ cố KQ Nguyễn lương Hùng C119,
-      Chị quả phụ cố KQ Lê văn Đạt
-      KQ Kha Lăng Đa Hồ danh Lịch  ở St Louis
-      KQ Trần quang Khải
-      KQ Nguyễn Anh Tuấn
-      KQ Lê mạnh Hùng
-      Gia đình một KQ dấu tên…
-      KQ Lê văn Sùng tự Sùng Combat…

Đó là những đóng góp rất khiêm nhường trước ngày hội ngô của liên khóa 65/45 năm hội ngộ cả vài tháng. Thời gian trong và sau cuộc hội ngộ, kẻ viết bài này không hề biết được thêm một chi tiết nào khác.Trong buổi tối sau ngày hội ngộ, người viết tình cờ biết được một chi tiết rất cảm động với sự chứng kiến của vài KQ có mặt : một gia đình con của một KQ khóa 65 đã đến thăm Hiệp sĩ mù kèm theo một tờ giấy như sau :

Gia đình cháu “dấu tên” ,con một KQ khóa 65 gửi Chú H. chút quà mọn như sau :

·        …biếu Thím H. mua đồ nấu chay…
·        …Mua gạo phát cho người nghèo…
·        …Giúp các học sinh nghèo học giỏi…
·        …Mua hòm phát cho người nghèo qua đời…

Sau khi gia đình người cháu gái ra về, tôi đặt thẳng vấn đề với Hiệp sĩ Mù…hay thầy H. hay Bạn cùng liên khóa 65 với tôi cũng vậy :

-      Bây giờ tôi hiểu ra rồi…Vậy tại sao H. không nói những việc làm của mình cho anh Em liên Khóa 65 biết để họ trợ giúp Bạn ?

H. mỉm cười hiền lành và trả lời :

- Anh ạ !...Tôi là một Phật tử thuần thành. Suốt đời còn lại sẽ ăn chay niệm Phật. Nhưng tôi thấy trong Thánh Kinh Công Giáo có dậy rằng : “…Việc làm nhân đạo của tay phải, tay trái cũng không biết được”. Vậy tôi làm sao nói ra hay phô trương cho mọi người biết. Phô trương như vậy thì việc làm của mình đâu còn ý nghĩa nữa ?”.…

Với lại, sau hơn 10 ngày tôi ở đây, với người Bạn trong liên khóa 65 này,tôi nhận ra một thực tế cần phải nói ra cho mọi người bên VN hiểu : Rằng…Phần đông người VN đều có ý nghĩ  ở bên Mỹ này, các Anh làm ăn thật dễ dàng giầu có như mọi người chỉ cần ra ngoài đương lượm Dollars về là xong, cất vào túi hay bỏ vào ngân hàng. Thật ra, các Anh các Chi thật là vất vả với muôn vàn khó khăn mà người ta gọi là pressure mới kiếm được đồng tiền để sinh sống…Nào tiền nhà, tiền bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm xe cộ, tiền điện, tiền nước, tiền rác…và những chi phí không tên khác…Cứ ra khỏi nhà là các Anh Các Chị đã phải chi tiêu rồi. Thế thì tôi mới hiểu ra là các Bạn tôi, dù cùng trang lứa với tôi, có thể các Anh cũng già nua và cằn cỗi hơn chúng tôi nhiều vì các Anh có nhiều điều phải lo âu hơn chúng tôi….Nghe những nhận xét của H. người Hiệp Sĩ Mù cả hai mắt đã 38 năm tôi mới nhận ra một sự thật “…nhiều khi người mù hai mắt, nhưng tâm hồn và lý trí của Họ còn sáng suốt hơn cả chúng ta, những người còn đủ cả hai mắt…”

Tôi đem chuyện này nói lại với Bạn tôi, một người Hoa tiêu C119 thuộc khóa 65D . Anh Bạn tôi sốt sắng và khuyến khích tôi bằng những lời lẽ đầy chân thành :     

Bác phải viết ra, viết ngay ra vì Bác biết rõ ngọn nguồn câu chuyện của Bạn chúng ta, người Bạn đã sống cả một kiếp người trong bóng đêm cuộc đời.
 

Cali July 4,2010.

Vũ Ngô Khánh Truật

VỀ MỤC LỤC
THA THỨ SẼ GIẢI THOÁT CHÚNG TA
 

Kính thưa quí bạn, chúng ta đã đi qua 9 bài học về chủ đề tha thứ trong mục Sống Sao Cho Đẹp. Trong bài thứ 10 này, tôi mời bạn hướng về Thiên Chúa là Đấng đã tha thứ cho chúng ta vô điều kiện ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Và chính Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta ơn thánh để chúng ta tiến tới việc hòa giải tha thứ với người thân của mình.

* * *

Vào năm 1995, chị Cẩm Lai đã cho người bạn thân của mình là chị Thu Vi mượn 10,000 dollar. Sở dĩ có sự vay mượn này là vì tình bạn thắm thiết và sự hoàn toàn tin tưởng vào nhau. Năm 2001, do hoàn cảnh làm ăn, chị Cẩm Lai phải di dời về Florida sinh sống. Trước khi đi 6 tháng, chị Cẩm Lai đã nhắc bạn Thu Vi trả lại số tiền mà mình cho mượn. Nếu không có đủ thì Thu Vi có thể trả dần dần, vì chị Cẩm Lai cần tiền sinh hoạt cho những tháng đầu tiên tại tiểu bang mới. Chị Thu Vi đã không những không trả tiền nợ mà còn thách đố rằng, “Tôi không trả, chị làm được gì tôi!” Nếu bạn là chị Cẩm Lai, bạn sẽ nghĩ gì, bạn sẽ hành động ra sao?

* * *

Chị Cẩm Lai tâm sự rằng. Nỗi khổ đau của chị kéo dài liên tục trong vòng mấy năm. Ngoài  nỗi đau khổ vì mất 10,000 dollar, thì nỗi đau khổ lớn hơn của chị chính là bị mất niềm tin vào tình bạn. Tình bạn càng thắm thiết bao nhiêu, thì nỗi đau vì bị phản bội càng thấm thía bấy nhiêu. Chính nỗi đau này đã gặm nhấm con người của chị. Người của chị trở nên tiều tụy, mất ngủ, và sa sút cả thể chất lẫn tinh thần.

Chị quyết định chạy đến với Thánh Giuse để cầu xin Ngài giúp chị, trước hết là quên đi  nỗi đau này, và thứ đến là học biết tha thứ. Trong ba tháng liên lỉ, chị chân thành cầu nguyện với Thánh Giuse, cuối cùng chị tìm thấy sự bình an trở lại. Chị đã hiểu ra rằng, nạn nhân của sự việc này trước hết chính là chị. Số tiền ấy nếu chị Thu Vi có trả lại, thì chị cũng sẽ giúp người nghèo. Chị Cẩm Lai cũng đã tìm được ý nghĩa cao thượng của tình bạn nghĩa là dù có bị phản bội, chị vẫn là bạn của chị Thu Vi trong lời cầu nguyện và nếu nỗi đau ấy có lại gợi lên trong tâm trí của chị, chị sẽ đón nhận nó với ý thức rằng: nỗi đau này là giá để cầu nguyện cho bạn của mình là Thu Vi.

* * *

Quí bạn thân mến, những bài học về tha thứ nó không xa chúng ta lắm đâu, nhưng nó thực sự rất gần trong máu thịt của chúng ta. Vấn đề là chúng ta có muốn tha thứ hay không? chúng ta có muốn sống và nâng cao phẩm giá làm người của mình hay không? chúng ta có quyết tâm để tự thoát ra lối suy nghĩ và quan niệm hơn thua của người đời hay không? Nếu bạn có quyết tâm, ơn thánh của Chúa sẽ giúp bạn. Phần thưởng của sự tha thứ chính là bình an cho mình, cho gia đình mình, và cho cộng đoàn mình.

* * *

Để kết thúc loạt bài Tha thứ và Hòa giải, tôi mời quí bạn suy gẫm lời phát biểu của người góa phụ trẻ tại Ontario, Canada vào ngày 12 tháng 3 năm 2010 vừa qua, khi chồng của bà là anh Phạm Duy Vũ, 37 tuổi bị giết thảm thương đang lúc làm nhiệm vụ cảnh sát.

Với giọng run rung và ghẹn ngào trước quan tài của người chồng, cùng với ba đứa con, người quả phụ trẻ Heather Phạm nói:

"Dẫu biết là rất khó khăn nhưng tôi tin tưởng rằng chỉ có sự tha thứ là phương cách giải thoát chúng ta khỏi mọi đau đớn và giận dữ.” Bà nói tiếp,  "Thiên Chúa đã trao ban sự tha thứ của Người cho chúng ta một cách nhưng không, với sự phù trợ của Thiên Chúa và bằng tất cả năng lực tốt nhất của con người phàm nhân nơi tôi, tôi cũng vậy - một cách nhưng không - tôi tha thứ cho người đã giết chết anh Vũ, chồng và là cha của các con tôi. Lời cầu nguyện và ước vọng của tôi là xin tất cả mọi người hãy cầu nguyện và tha thứ cho nhau. Tôi biết rằng đó cũng là điều anh Vũ đã muốn."[1] 

Br. Huynhquảng 
 


VỀ MỤC LỤC
KIÊN NHẪN TÌM HIỂU THÊM VỀ VỢ MÌNH

 

Tác phẩm: Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

A7.KIÊN NHẪN TÌM HIỂU THÊM VỀ VỢ MÌNH

 

Nhân dịp mừng 50 năm thành hôn, một cụ già đã phát biểu trước 8 người con trai và 30 người cháu:

Nếu cuộc hôn nhân của ta được hạnh phúc là nhờ ta đã áp dụng được triệt để lời khuyên của vị linh mục chủ sự lễ hôn phối cách đây 50 năm.

Thật thế, vị linh mục ấy đã nói với ta như sau:Đừng có ai trong hai người khai mào cuộc cãi vã. Ai là người đầu tiên gây sự, sẽ đe doạhạnh phúc lứa đôi’. Vị linh mục này đã có lý.

Từ 50 năm nay chúng ta đã cố gắng giữ hết sức, để không ai là người đầu tiên gây ra cuộc cãi vã. Chúng ta có rất nhiều khác biệt. Nhưng chúng ta đã biết trao đổi để vượt qua những khác biệt đó. Đấy là bí quyết hạnh phúc của chúng ta.

Nếu lời khuyên trên đây chỉ được thực hành với một số điều kiện, thì những điều kiện đó đối với ta luôn luôn có trong các giới răn của Chúa, nhất là cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích.

Các con, các cháu yêu quí, nếu các con, các cháu muốn được hạnh phúc và được Chúa chúc lành thì đừng bao giờ là người đầu tiên tạo ra cuộc cãi vã trong gia đình”.

Lời khuyên của cụ già trên đây, chúng tôi cũng xin được gửi đến các đôi vợ chồng trẻ. Riêng với người chồng trẻ đang chập chững bước vào đời sống hôn nhân chúng tôi xin được khuyên họ: hãy kiên nhẫn để tìm hiểu, cảm thông với người vợ trẻ của mình.

1. Trong một bài thơ bằng tiếng Phạn, người Ấn Độ đã giải thích sự bí ẩn kỳ diệu của người đàn bà qua câu chuyện sáng tạo như sau:

Thượng Đế đã lấy

vẻ uyển chuyển nhẹ nhàng

của chiếc lá rơi

và cái nhìn ngơ ngác

của nai tơ giữa rừng,

Ngài đã lấy sự nhảy múa tung tăng

của ánh mặt trời buổi sớm

và những giọt nước mát của sương mai,

Ngài đã lấy sự bất thường của gió

và sự nhút nhát của con thỏ,

Ngài đã lấy sự uyển chuyển kiêu sa

của loài công vương giả

và nét dịu dàng của chùm lông

trên cổ chim én,

 

Ngài thêm vào tất cả những thứ đó

sự cứng cỏi của đá kim cương,

sự dịu ngọt của mật ong rừng

sự hung bạo của loài cọp,

sức nóng của lửa thiêu

và hơi lạnh của băng tuyết.

Ngài còn thêm vào nữa

tiếng hót của chim bạc má

và tiếng gù của chim bồ câu

 

Ngài đã trộn lẫn

tất cả những thứ đó

để tạo nên người đàn bà

và Ngài đã mang tặng

cho người đàn ông.

2. Bài thơ trên đây muốn diễn tả những cái bất thường mà người đàn ông có thể nhìn thấy nơi người đàn bà. Những cái bất thường ấy lại được xây trên rất nhiều lý lẽ vững chắc mà chỉ có người đàn bà mới hiểu được. Người chồng có lẽ chỉ hiểu được những cái bất thường ấy sau một vài năm chung sống với nhau.

Người vợ sẽ làm cho người chồng ngỡ ngàng về tính nhẹ dạ, nông nổi cùng những ước muốn trẻ con của họ. Nhưng rồi sẽ đến lúc, người đàn ông sẽ phải cảm phục sự sáng suốt, óc thực tế bén nhạy nơi người đàn bà. Nhất là sẽ có những lúc người đàn bà tỏ ra quảng đại và can đảm gấp trăm nghìn lần người đàn ông.

Đứng trước một biến cố bất thường hoặc đau thương của gia đình, đôi khi óc lý luận và ngay cả sự tỉnh táo của người đàn ông cũng không giúp giải quyết được gì. Cuối cùng thì phải cần đến sức mạnh của người đàn bà. Đó là sức mạnh của sự chịu đựng, lòng vị tha mà Thiên Chúa đã phú bẩm cho người họ. Sức mạnh ấy kiến hiệu và vượt xa những tính toán của người đàn ông.

Mẹ thiên nhiên xem ra ưu đãi người đàn bà hơn đàn ông. Người đàn bà yếu đuối và dễ bị thương tích hơn người đàn ông, nhưng sức chịu đựng của người đàn bà trổi vượt hơn người đàn ông. Người đàn bà dễ bị xúc động hơn người đàn ông, nhưng lại đứng vững trước thử thách hơn người đàn ông. Người đàn bà có nhiều bệnh tật hơn người đàn ông, nhưng lại sống dai hơn người đàn ông. Người đàn bà chịu đựng cảnh góa bụa dễ hơn người đàn ông.

Sức mạnh đó cộng với sự hiến thân và trực giác nơi người đàn bà là những hệ số vững chắc để bảo vệ hạnh phúc hôn nhân và gia đình vốn bị đe doạbởi không biết bao thứ đột xuất.

Nhưng dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là người đàn ông phải nhắm mắt làm ngơ trước những hành động thiếu suy nghĩ của vợ, nhất là những phản ứng thiếu khoan dung phát xuất từ sự ghen tuông, từ đầu óc thiên vị.

3. Cường độ tình yêu của người đàn ông gắn liền với óc chinh phục và cảm tính. Họ có thể là người tình say mê, nhưng lại là người chồng hờ hững. Khi nét hấp dẫn nơi người đàn bà phai mờ với thời gian thì mối tình đã một thời bốc cháy nơi người đàn ông cũng dễ dàng tàn lụi.

Người đàn bà thì khác hẳn. Tình yêu của họ là một lò lửa luôn bùng cháy. Dù cho thân xác có hao mòn, trái tim của người đàn bà vẫn luôn tươi trẻ. Người đàn bà cho mà không tính toán. Sự hiến thân không giới hạn ấy là một trong những nền tảng vững chắc cho gia đình. Bởi vì gia đình phải được xây dựng trên sự cần cù, nhẫn nại, chịu đựng, hy sinh. Từ bàn ăn, phòng ngủ, phòng khách đến cây cỏ trong vườn, chính nhờ bàn tay và sự hiến thân của người đàn bà mà tất cả đều được giữ gìn trong trật tự tươm tất. Những cái mà người đàn ông cho là phụ thuộc, lại là những điều thiết yếu đối với người đàn bà. Bởi vì họ đặt vào đó tất cả tình yêu của họ.

4. Người chồng phải luôn tâm niệm rằng, người vợ là quà tặng cao quí nhất mà Thiên Chúa đã ban cho mình. Một món quà cao quí, nhưng thường được gói ghém trong một bọc giấy của không biết bao nhiêu những điều bất thường mà người đàn ông không thể hiểu được chỉ bằng sự phân tích và lý luận của mình.

Để tạo nên hạnh phúc gia đình, óc lý luận và sự uyên bác của người đàn ông cần có sự hỗ trợ của trái tim người đàn bà. Người chồng luôn nhớ rằng, người vợ làm tất cả vì yêu thương. Cho dù có những vụng về, những bất thường, những nông nổi trong cách thể hiện tình yêu của người đàn bà, nhưng đó chính là những nét phụ thuộc của tâm hồn họ. Người chồng phải có một nhân cách sống và một sự ân cần tâm niệm mới mong hiểu được cách suy nghĩ, lý luận, biểu tỏ của vợ mình.

Tình yêu đích thực mang tính sáng tạo và chiêm niệm. Không những người chồng biết nhìn ra cái đẹp, cái tích cực nơi vợ mình, mà còn biết tìm hiểu để cảm thông với những cái khác biệt, bất thường của vợ nữa.

Đời sống hôn nhân là trường dạy yêu thương. Nếu người chồng biết tạo cho mình những phản xạ của cảm thông, nghĩa là biết tìm hiểu và đi sâu vào tâm hồn của vợ mình, thì cho dẫu có gặp những điều trái ý và bất thường đến đâu nơi người vợ, người chồng sẽ không bao giờ châm ngòi cho sự cãi vã, gây gổ.

Tâm niệm và luyện tập được một phản xạ như thế, người chồng hãy tin chắc, họ đang nắm trong tay chìa khóa của hạnh phúc.

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

 

VỀ MỤC LỤC
ỨNG SINH GIÚP NHAU  TỰ ĐÀO TẠO CHÍNH MÌNH 

 

[BẢN THẢO]

LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN

TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

CHƯƠNG MỘT 

LINH MỤC GIÁO PHẬN TƯƠNG LAI

sỐng TỐT đỜi SỐNG đỘc thân LINH MỤC

TRONG BỐI CẢNH GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

(tiếp theo)

G. ỨNG SINH GIÚP NHAU  TỰ ĐÀO TẠO CHÍNH MÌNH 

G.I. Tính QuyẾt đỊnh cỦa TỰ Đào TẠo 

Việc đào tạo sẽ mất đi hiệu quả của nó, nếu nó không bao hàm sự tham gia cá nhân của ứng sinh, nghĩa là sự tự đào tạo của anh. Chính vì thế, Đức Gioan Phaolo II đã nhắc nhở rằng chính ứng sinh là nhân tố cần thiết và không thể thay thế được trong việc đào tạo của chính mình: “Tự đào tạo là tối quan trọng trong tất cả mọi công cuộc đào tạo, kể cả đào tạo linh mục. Không ai có thể thay thế chúng ta trong sự tự do có trách nhiệm mà chúng ta có được như là những nhân vị độc đáo[17]  

Vâng, tự đào tạo là yếu tố quyết định đưa tới thành công trong việc đào tạo thiêng liêng. Mặc dù Chúa Thánh Thần là tác nhân tuyệt hảo trong việc đào tạo này, ứng sinh phải hoàn toàn tự do đón nhận tác động định hình Ngài.  

Cũng thế, hoạt động của các nhà đào tạo khác nhau sẽ chỉ “trở nên thực sự và đầy đủ hiệu quả, nếu ứng sinh cống hiến sự cộng tác chân thành và xác tín của chính anh vào công cuộc đào tạo này.”

Quan niệm Á Châu “không thầy đố mầy làm nên” ngày nay đã được thay đổi: nếu không có sự thực hành của trò thì những giáo điều và lý thuyết của thầy chỉ là những lời hoa mỹ thôi. Học phải đi đôi với Hành. 

Điều rất quan trọng là việc đào tạo phải cung cấp cho ứng sinh cách suy nghĩ mới, cách sống mới, cách hành động mới, cách yêu thương mới và cách làm chứng mới cho Tin Mừng. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là việc tự đào tạo này phải đem sự hiểu biết hữu ích đó ra thực hiện. Sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phía, đào tạo và tự đào tạo, là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công, và dĩ nhiên với ơn Chúa nữa. 

Vì thế, Pastores Dabo Vobis đòi hỏi: “Các ứng sinh... phải hết sức ý thức chuẩn bị chính mình để đón nhận ơn Chúa và đem ra thực hành, biết rằng Giáo Hội và thế giới đang rất cần đến họ”[18]   

G.II. CỘng Đoàn Giáo DỤc  

“Việc đào tạo linh mục được hiệu quả nhất ở trong cộng đoàn, được hiểu như một mạng lưới hữu cơ của mối tương quan liên nhân vị.”[19] Vì thế, chủng viện phải được quan niệm như một cộng đoàn giáo dục,[20] nơi mà chủng sinh được hướng dẫn “không chỉ tới chức linh mục, song còn khám phá và sống đời sống của Chúa Giêsu.”

Cộng đoàn giáo dục này gắn liền với việc thực thi tập thể trách nhiệm của các nhà đào tạo trước tiên. Nó cũng mời gọi các chủng sinh đảm nhận trách nhiệm hàng đầu của việc đào tạo chính họ, và cộng tác vào việc đào tạo các bạn của họ, nhờ đời sống chung của chủng viện. Yếu tố căn bản của việc đào tạo linh mục là kiến tạo bầu khí kiên định, trước sau như một, thích hợp cho việc phát triển tâm lý và thiêng liêng. Sự thật và tính đơn sơ trong mối tương quan dẫn đến việc chỉ bảo lẫn nhau, chấp nhận lẫn nhau, ý thức chung về lợi ích chung và niềm vui chung trong việc tìm kiếm và phục vụ Chúa.  

Những nhóm nhỏ cống hiến nhiều cơ hội chia sẻ đức tin, kiểm điểm đời sống và kinh nghiệm cầu nguyện sẽ góp phần làm phát triển cộng đoàn giáo dục ấy. Cộng đoàn giáo dục này cũng mở ra với các cơ chế cộng đoàn của Giáo Hội địa phương, nơi mà các ứng sinh sẽ lãnh nhận được kinh nghiệm mục vụ phục vụ đoàn chiên Chúa. Những kinh nghiệm về Giáo Hội này lớn hơn kinh nghiệm mà cộng đoàn chủng viện cống hiến cho họ. Các kinh nghiệm ấy sẽ đào tạo ý thức mục vụ và tinh thần tông đồ của chủng sinh, đồng thời giúp họ khám phá ra cách cụ thể tính cấp bách của việc loan báo Tin Mừng, ý nghĩa và những đòi hỏi của cuộc đời họ, được trọn vẹn hiến dâng cho việc phục vụ Dân Chúa. Nhưng những kinh nghiệm ấy chỉ sinh hoa kết quả nhờ một suy tư thần học và tu đức được các nhà đào tạo tốt gợi lên và hướng dẫn.[21] 

G.III. Nhóm NhỎ Các BẠn ĐỒng Môn 

Ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều đến tính năng động của nhóm đào tạo. Dưới Ban Giám Đốc, một Ban Đại Diện, được anh em bạn bầu lên, tham gia vào việc điều hành chủng viện. Cộng đoàn chủng viện được phân chia thành nhiều nhóm nhỏ, nhằm thăng tiến việc làm việc nhóm và đời sống cộng đoàn.  

Các nhóm nhỏ chủng sinh được hình thành theo các trình độ khác nhau hoặc theo năm đào tạo. Một người trong ban đào tạo được chỉ định làm linh hoạt viên của nhóm, để duy trì thế quân bình giữa đời sống cấp nhóm và đời sống cấp chủng viện. Phải nhắm đến cả hai, các cá nhân và nhóm, như một toàn thể, ngõ hầu bảo đảm được sự trưởng thành của cả hai, cá nhân và tập thể. 

Đời sống trong nhóm gồm có những lúc cầu nguyện, gặp gỡ hàng tuần về một đề tài thuộc đời sống thiêng liêng (chia sẻ đức tin), những giờ giải trí, các hoạt động mục vụ, trách nhiệm phụng vụ và các dịch vụ hàng ngày. “Sự tương tác trong những nhóm như thế giúp phát triển sự tin tưởng lẫn nhau, truyền thông và chia sẻ, góp phần xây dựng một cộng đoàn đúng nghĩa.”[22] 

Nhóm nhỏ này có thể trở thành một nhóm bạn thân có thể dễ dàng thực hành việc “chỉ bảo huynh đệ.”[23] Thường người ta không dám sửa lỗi người khác, phần vì con người ai cũng yếu đuối và bất toàn, phần vì tế nhị hay sợ phản ứng tiêu cực từ phía người kia, hay ít nhất để tránh hiểu lầm nhau, mâu thuẫn và xung đột có thể có. Vậy, cách tốt hơn và dễ hơn là mọi người đồng ý thỏa thuận với nhau rằng “nếu một người trong nhóm thấy người khác có lỗi, thì người này sẽ nói với người đó về lỗi ấy.”  

Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ hàng tuần chia sẻ Phúc Âm và kiểm điểm đời sống, mỗi người có thể góp ý phản hồi cho người khác và giúp nhau tiến bộ hơn trong tiến trình đào tạo chủng viện và tự đào tạo, hy vọng tiến tới “tình huynh đệ bí tích” của chức linh mục (x. Tv 133,1). Tiến trình này đòi hỏi phải có ý ngay lành, sự sẵn sàng để thay đổi, lòng can đảm, tình bác ái, và nhất là ơn Chúa.

Trong cấp độ đời sống nhóm này, mỗi người phải học biết chăm chú lắng nghe và cho người khác ý kiến phản hồi cách thích hợp. Mỗi người cũng phải học biết chấp nhận chính mình và chấp nhận người khác: càng biết nhìn nhận lỗi lầm, thiếu sót, giới hạn, yếu đuối và bất lực của mình, ta càng trở nên khiêm tốn hơn; càng biết chấp nhận những lỗi lầm, thiếu sót, giới hạn, yếu đuối và bất lực của người khác, ta càng trở nên độ lượng và cảm thông hơn với họ. 

Đời sống nhóm giúp mỗi thành viên khám phá và phát triển những tài năng, tài năng tự nhiên và tài năng đạt được từ kinh nghiệm cuộc sống. Mọi người đều được Thiên Chúa kêu gọi và trao cho một số ân huệ để mở rộng Nước Thiên Chúa. Mỗi người có trách nhiệm tìm biết và phát triển những ân huệ ấy. Chẳng ai sở hữu được mọi ân huệ của Thiên Chúa, nhưng những ân huệ cần thiết cho sứ mạng luôn hiện diện trong cộng đoàn, và cộng đoàn là nơi cần thiết để nhận ra các ân huệ của mỗi thành viên (x. 1 Cr 12-14).  

Tuy nhiên, nhiều khi người ta phải chịu đựng những khó khăn và xung đột do ý niệm sai lầm hoặc đặt không đúng chỗ đức khiêm nhường, sợ hãi, ghen tị hay thèm muốn ân huệ của người khác (x. Gal 5,26). Nếu biết chú ý tới những khác biệt của tha nhân, đánh giá sự độc đáo của người khác với sự hiểu biết tích cực, coi những xung đột chỉ là một phần cần thiết trong tiến trình sáng tạo và phát triển, chứ không phải là vấn đề, thì mọi sự sẽ được giải quyết, cộng đoàn sẽ tiến triển tốt đẹp, và sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh sẽ được hiệu quả hơn (Gal 6,2). 

    G.IV. KỸ THUẬT CHỈ BẢO HUYNH ĐỆ 

    G.IV.1 Định nghĩa

Nói hành nói xấu là Tốt hay Xấu? Và nói hành nói xấu là gì? – Nói hành nói xấu là nói điều tiêu cực của một người với những người khác sau lưng người ấy (có thể là Bề trên hay anh em...).           Như vậy, nhìn chung, nói hành nói xấu là xấu.

Vậy tại sao ta lại nói? Đâu là động lực sâu xa của nói hành nói xấu? Và là xấu hay tốt? Nếu nói để hãm hại, hạ uy tín, trù dập người ta thì động lực sâu xa của nói hành nói xấu là xấu. Còn nếu vì muốn cho người ấy trở nên tốt, thì động lực sâu xa của nó là tốt. Quả vậy, nếu người ấy tốt rồi thì ai nói làm gì!          

Vậy làm sao để phát huy động lực tốt đó? Chúa Giêsu dạy thực hành việc chỉ bảo huynh đệ: “Nếu anh em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe ngươi, ngươi hãy kèm theo một/hai người nữa, để tất cả công việc được đoán định do miệng hai/ba nhân chứng. Nếu nó không màng nghe họ, hãy thưa với cộng đoàn…” (x. Mt.18, 15-17)

Để thực hiện lời dạy chỉ bảo huynh đệ của Chúa Giêsu, chúng ta sử dụng kỸ thuẬt chỈ bẢo huynh đỆ Feed-Back: Feed-Back là một kỹ thuật cảm thông và giao tế, có nghĩa chuyên môn là “gửi trả lại” [một người xin kẻ khác nhận xét về mình, người kia cho nhận xét, và người xin trả lời lại về nhận xét đó]. Có thể áp dụng vào Đào tạo và Tự đào tạo, cả về chiều dọc lẫn chiều ngang (x. Phê và tự phê): Người và ta, trên và dưới gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp.  

Khi chỉ bảo huynh đệ, mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện sứ mệnh hòa giải của Chúa Giêsu: “Đức Kitô đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, đã huỷ bỏ Luật cũ… Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất… Người đã đến loan Tin Mừng bình an… nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Eph 2,14-18)  

Cuộc đời mỗi người có bốn ô không đều (x. Hai cái bị ăn mày):

·        Phần mù là ô chỉ người khác biết về ta những điều mà ta không biết hay ý thức được.

·        Phần che đậy là ô chỉ ta ý thức và biết về mình, còn người khác không biết được.

·        Phần hiển nhiên là ô người khác biết về ta, và ta cũng biết và ý thức được.

·        Phần vô thức, bí mật và huyền nhiệm là ô người khác không biết về ta, mà ta cũng chẳng ý thức được.  

G.IV.2 Cho và Nhận Feed-Back

Khi được ta xin, người khác sẽ nói cho ta biết phần mù của ta, và ta sẽ trả lời lại, giải thích cho họ về điều họ nói, đồng thời nói cho họ biết phần còn che đậy của ta. Như thế, người và ta sẽ dần dần thu hẹp lại phần mù lẫn phần che đậy, và khai mở biên giới của phần hiển nhiên, để rồi cả đôi bên hiểu biết nhau hơn, cảm thông, tín nhiệm, thân nhau, thương nhau hơn và cộng tác tích cực với nhau hơn. 

Nhờ cho và nhận Feed-Back, người thêm hiểu ta và ta thêm hiểu mình, cả đôi bên sẽ giúp nhau khám phá và gọi ra ánh sáng được phần nào cõi vô thức, bí mật và huyền nhiệm của cuộc đời, làm ta và bạn ta ngày càng thêm phong phú, dù chỉ thấy và biết một cách mơ hồ, khuy khuyết mà thôi (x. 1Cr 13:12).  

Nhưng muốn cho và nhận Feed-Back như thế không phải dễ làm đâu. Nó đòi hỏi một số điều kiện kỹ thuật, về phía người cho cũng như về phía người nhận, mà cần nhất là tinh thần chân thật tin nhau: “Nhìn vào mặt nhau đi và hãy nói với nhau thực tình như chưa bao giờ, còn ngần ngại nhau chi mà không nói với nhau lời tha thiết trong tâm hồn? Bao nhiêu năm mệt nhòa, mình tìm mà tìm không ra, thế nhưng ai ngờ thành bại tùy ta” (Lời trần tình).          

G.IV.2a Tám điều kiện của người cho Feed-Back:

1. Đợi cho người nghe phải sẵn sàng đã.

2. Mô tả một hành vi như quay một cuốn phim, không phê phán.

3. Việc xảy ra không lâu, để người đó còn nhớ rõ hầu kiểm chứng.

4. Nói những điều người kia vô tình không ý thức được. Và chỉ nói điều ta thấy, ta nghĩ, chứ không phải điều kẻ khác thấy, nghĩ và nói (Trò chơi “Tam sao thất bổn).

5. Nói những điều có thể sửa đổi được (là hiện tượng chứ không phải là bản chất).

6. Chỉ nói những điều có thể sửa đổi được, nhưng không bắt buộc người kia phải sửa đổi (chỉ có Chúa biết rõ và           có thể thay đổi một con người).

7. Nói để giúp ích cho người kia, chứ không phải nói cho hả giận hoặc để trả thù.

8. Nói với sự kính trọng      và yêu thương, như chia sẻ một mối ưu tư, một cảm tưởng, một phản ứng tự nhiên. 

G.IV.2b Bốn điều kiện của người nhận Feed-Back:

1. Phải xin người khác cho mình Feed-Back.

2. Lắng nghe và kiểm chứng là mình đã hiểu rõ.

3. Đừng mất tinh thần, nếu gặp phải Feed-Back tiêu cực (bị chê, bị chỉ trích).

4. Trả lời cho người cho mình Feed-Back với lòng biết ơn, vì người ta đã vì lòng bác ái mà cho mình nhận xét, nhất là khi feed-back làm cho mình khó chịu.  

Một vấn nạn: Người cho nhận xét phải đợi người nhận sẵn sàng đã, nhưng nếu người nhận không xin, mà việc cần góp ý thì phải làm sao? – Theo gương Chúa Giêsu chủ động đi bước trước: “Ông Simon, tôi có điều này muốn nói với ông – Xin Thầy cứ nói” 

G.IV.3 Lợi ích của việc cho và nhận Feed-Back:

Bề dưới có thể chủ động xin giờ hẹn để Bề Trên sẵn sàng lắng nghe trình bày và góp ý. Bề Trên cũng có thể hẹn trước để bề dưới chuẩn bị tinh thần, nhất là đối với người dễ phản ứng mạnh. Tất cả cũng chỉ vì bác ái, muốn điều tốt nhất cho nhau. Nếu thực hiện đúng kỹ thuật, việc cho và nhận Feed-Back sẽ đem lại những lợi ích sau đây:

·    Cho nhau cơ hội để giải thích rất nhiều hiểu lầm (x. Chuyện Khổng Tử và Nhan Hồi).

·    Là cơ hội giúp ta và tha nhân ý thức được những khía cạnh nhân bản và giao tế của mình rõ hơn để thăng tiến.

·    Gia tăng sự tin cậy, tình bằng hữu, loại trừ sợ hãi, tạo bầu khí bình an và an toàn vốn là đặc tính thiết yếu của một cộng đoàn giáo dục. 

·    Nếu thực tâm nghiên cứu và đem ra thực hành phương pháp này, sinh hoạt Nhóm sẽ phong phú và bổ ích: ai cũng thấy mình hiểu anh em hơn và được anh em hiểu mình hơn. Hiểu biết lẫn nhau là chìa khóa của tất cả! Hiểu nhau hơn, thông cảm nhau hơn, thương nhau hơn và cộng tác với nhau chân thành hơn, còn gì đáng mong ước cho bằng! Thật là phấn khởi và hy vọng, dù có tế nhị khó khăn và đòi hỏi nhiều bác ái và can đảm.

·    Quả thế, công cuộc này xây dựng tình bạn chân thành, để giúp nhau trong cuộc sống đa nguyên đa diện hôm nay,        và vượt thắng những khó khăn trong đời sống hằng ngày (x. Chuyện Quản Trọng và Bảo Thúc Nha).

·    Đối với bạn, biết nhau không phải để thắng hay thua, nhưng để hiểu nhau, thương nhau, nâng đỡ nhau cùng tiến bước trên con đường làm người, làm tín hữu và làm người tông đồ của Chúa.

·    Chúng ta là người, không phải là Chúa, để tự nhiên có thể biết được nhau. Do đó, chúng ta cần cho nhau một số thông tin cần thiết, để vượt quá cái giới hạn “biết người biết mặt mà không biết lòng” hầu có thể cảm thông nhau đúng với từng hoàn cảnh cụ thể và cá biệt của nhau, vì chính cuộc sống thực mỗi ngày mạc khải đúng bản chất con người của chúng ta, chứ không phải các hiện tượng bên ngoài.  

    G.IV. 4 Chú ý trong sinh hoạt nhóm:

·    Hễ A xin và B cho Feed-Back, thì A phải trả lời B, và hai người sẽ đối thoại với nhau, dưới sự chứng kiến của Nhóm, cho đến khi thật hiểu nhau, rồi người khác mới tiếp tục cho A Feed-Back mới.

·    Khi A và B đối thoại với nhau thì Nhóm lắng nghe và giúp kiểm chứng cách khách quan đúng sự thật và công bằng.

·    Khi cho Feed-Back thì đừng nói cái người khác thấy hay nghĩ, mà chỉ nói cái chính ta thấy hay nghĩ mà thôi.

·    Hiện có những nhóm liên kết với nhau bởi động lực thiêng liêng, nhằm giúp nhau bảo vệ và thăng tiến đời sống ơn gọi, chẳng hạn qua chuỗi sống Mân Côi, mỗi người đọc một chục kinh hằng ngày cầu nguyện cho nhau và cam kết nói với nhau bất cứ điều gì với mục đích trên. Thật là đáng khâm phục và bắt chước.

·    Chúng ta có thể mong đợi hơn thế nữa, vì việc dấn thân theo Chúa thực sự đưa chúng ta vào một gia đình thiêng liêng, một cộng đoàn giáo dục thấm đậm tình người và tình Chúa, vừa nhân loại vừa thiêng liêng, trong mối tương quan của phụ tử và huynh đệ. Chúng ta tìm mọi cách thích hợp để bảo vệ, phát triển và thăng tiến nó. MUOI MOT DUONG LOI.ppt 

·    Thái độ khiêm nhu và nhân ái, cảm thông và nâng đỡ của Chúa Giêsu đã khiến muôn dân đặt niềm hy vọng vào Ngài. Vậy đâu là thái độ ứng xử của chúng ta với anh em mình?

·    Dĩ nhiên chúng ta muốn bắt chước Chúa Giêsu, Đấng đã luôn cảm thông nâng đỡ và tha thứ lầm lỗi, tin tưởng vào tương lai được biến đổi tốt đẹp của người lầm lỗi: Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, và mỗi tội nhân đều có một tương lai.

·    Chúng ta được mời gọi noi gương Chúa Giêsu, “không bẻ gãy cây sậy đã rạp xuống, không dập tắt tim đèn còn leo lét khói”; không nhắc lại lầm lỗi quá khứ của anh em, vì như thế là dập tắt niềm vui được tha thứ và biến đổi của anh em. Trái lại luôn khích lệ, cổ vũ giúp anh em lật sang một trang mới của cuộc đời, với hy vọng và tin yêu.  

    G.IV.5 Áp dụng vào việc ứng sinh viết nhận xét về nhau

·    Được thúc đẩy bởi ý muốn có một sự cộng tác tích cực trong việc đào tạo ứng sinh tốt, một số nhà đào tạo muốn ứng sinh viết nhận xét về nhau.

·    Ý hướng thật tốt, nhưng có thể có phản ứng và hậu quả không như mong muốn. Việc này vừa giảm nhẹ trách nhiệm của những người có trách nhiệm, ơn đoàn sủng và nghiệp vụ đào tạo và đánh giá, vừa trao trọng trách quá lớn cho ứng sinh vốn không có trách nhiệm, ơn đoàn sủng và nghiệp vụ đào tạo, chưa đủ trưởng thành để phán đoán trách nhiệm lương tâm khi nhận xét theo cảm tính thiên vị hay đầu óc phe nhóm, tô bồi cho người mình ưa và trù dập kẻ mình ghét.

·    Nên coi việc này chỉ có giá trị tham khảo về một tình huống mà thôi. Đúng vậy, về những điều tiêu cực, chỉ nên nói đến một tình trạng, một sự kiện, không nêu đích danh người nào, để người có trách nhiệm nhắc nhở chung, bản thân ai có thì tự mình lo sửa chữa cho tốt.  

·    Chính người có trách nhiệm sẽ đích thân kiểm tra bằng một cuộc đồng hành sâu sát, vì thực tế cuộc sống mỗi ngày sẽ mạc khải đúng chân tướng con người: người ta chỉ có thể giấu giếm một thời gian thôi, chứ chẳng ai che đậy suốt cả đời được đâu! 

·    Trước hết, nên nhớ ai cũng có cái tốt và cái xấu, hãy nêu những điều tích cực để giúp phát triển cái tốt và đẩy lui cái xấu, như lời khuyên của Baden Powell đối với 5% tốt và 95% xấu nơi một con người. 

·    Còn nếu thấy anh em có lỗi lầm cụ thể nào, trước hết hãy cầu nguyện cho mình và cho anh em, rồi đến nói trực tiếp với người anh em như Chúa dạy, nếu anh em quyết tâm sửa thì thôi, bỏ qua, không nói tới với ai nữa. Nếu người anh em chưa sửa được, hãy nhẫn nại cầu nguyện và nhắc nhở, vì cái gì cũng cần có thời gian. 

·    Nếu gặp một lỗi nghiêm trọng mà người anh em thiếu tinh thần phục thiện và ngoan cố thì để tránh thiệt hại lớn cho cộng đoàn lẫn đương sự, sau khi đã trực tiếp làm mọi cách có thể, và nhất là cầu nguyện, thì hãy theo lương tâm, can đảm đích thân kín đáo trình bày với người có thẩm quyền và sẵn sàng chịu trách nhiệm kiểm chứng về điều mình nói, cả khi có mặt chính đương sự.  

·    Dĩ nhiên người có trách nhiệm sẽ xử sự khôn ngoan và kín đáo, không làm cho các đương sự phải mặc cảm, tổn thương thanh danh, lại nguy hiểm hơn là ác cảm thù hằn nhau: “Xấu quá hóa giận, giận quá hóa thù,” và họ sẽ đóng lòng lại, không dám nói gì với mình nữa. Hơn nữa cũng phải chắt lọc điều mình nghe và các hậu ý của người đến nói. 

·    Các anh em có trách nhiệm đoàn, nhóm cũng nên vận dụng lời thánh Augustinô: Cho anh em, tôi là tổ trưởng; nhưng với anh em, tôi cũng chỉ là một ứng sinh; đừng làm hay nói chi gây thiệt hại và đau khổ, đưa lại những phản hồi bất lợi, từ những người ngoài cuộc: “Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện” (Mt 18,31).  

·    Dù Giuđa toan tính phản nộp Ngài, Chúa Giêsu vẫn luôn kín đáo nhắc khéo Giuđa nhiều lần (một người trong các con sẽ nộp thầy, các ngươi không sạch hết cả đâu, việc gì con tính làm hãy làm mau đi, con dùng cái hôn để nộp Con Người ư?…). Hãy nhẫn nại chờ đợi, và mở cho người lầm lỗi một cơ hội để đứng lên (Mt 9,9-13).  

·    Trong mọi tình huống, nên “lắng nghe để hiểu, và nhìn lại để thương.” Nhớ dụ ngôn con chiên lạc của Chúa Giêsu (Lc 15,4-7; Mt 18,12-4): “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.’ Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.”  

G.IV.5 LÒNG CẢM THÔNG ĐỐI VỚI LẦM LỖI CỦA NGƯỜI KHÁC  

Chúng ta đừng quên tiến trình chỉ bảo huynh đệ để sửa chữa lầm lỗi của người khác mà Chúa Giêsu dạy trong Phúc âm (Mt.18,15-17). Một người có thể có hai thái độ hành xử: hoặc là phòng bệnh, hoặc là chữa bệnh. 

Người cảm thông phòng bệnh đi bước trước, ngăn ngừa những ảnh hưởng tác hại từ bên ngoài, hay dập tắt ngay từ trứng nước cái mầm bệnh từ bên trong, để lỗi lầm không thể xảy ra. Như người làm nông năng thăm vườn cây, khi phát hiện cây bị sâu bệnh liền phun thuốc diệt sâu bệnh hại cây, người cảm thông đón trước khuyến cáo ngay lỗi lầm có thể, ngăn ngừa các ảnh hưởng và nguyên nhân từ bên ngoài, hay những yếu đuối từ bên trong thân phận con người.  

Người cảm thông tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, cho người phạm lỗi biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện hộ, kết luận xác định đúng lỗi lầm, cho đương sự cơ hội và thời gian sửa chữa, và nhẫn nại giúp đương sự tập đức tính ngược lại, hy vọng vào kết quả sẽ có trong tương lai, như dụ ngôn này của Chúa Giêsu:

“Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lk 13: 6-9) 

Người thiếu cảm thông mới khám phá thấy lỗi lầm đã có biện pháp ngay, vì óc cầu toàn đòi hỏi và đốt giai đoạn. Hoặc khá hơn, sẽ chờ đợi lỗi lầm trở nên rõ ràng để có biện pháp, nhất là khi người có lỗi che đậy, giấu giếm vì một lý do nào đó. Cũng tùy thái độ ngoan cố và thiếu tinh thần phục thiện của người lầm lỗi, người thiếu cảm thông thường âm thầm theo dõi (hoặc tệ hại hơn là đặt người theo dõi báo cáo), có khi còn “gài bẩy” cho mắc phải để đương sự không thể cãi lại, chữa mình hay chối cãi được nữa.

Chớ gì tiến trình chỉ bảo huynh đệ của Chúa Giêsu được thực thi. Cha ông chúng ta cũng từng quan niệm: “Nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cãi, thị vị vô quá” (đã là người thì không ai là không có lỗi, có lỗi thì sửa lỗi, và như vậy sẽ không còn lỗi nữa). Tuy nhiên, để thực hiện lòng nhân ái ấy, chúng ta cần khéo léo sử dụng kỹ thuật chỉ bảo huynh đệ “feed-back”, áp dụng vào đào tạo và tự đào tạo, cả về chiều dọc lẫn chiều ngang: Người và ta, trên và dưới gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp. 

Hãy cho người biết lỗi, cho họ cơ hội sửa lỗi, và cho họ thời gian nữa, vì không ai một sớm một chiều mà sửa ngay được. Tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, với ơn Chúa và sự cố gắng của mỗi người.       

Xin Ngài nhớ: dẫu mong manh phận

 Đoàn con đây cũng vẫn là con,

Nhậm lời chúng tử nỉ non

Danh Ngài nhân hậu tiếng đồn muôn năm.

Xin tha thứ lỗi lầm trót phạm

Giúp chúng con can đảm vững bền,

Vâng theo thánh ý ngày đêm

Bây giờ mãi mãi trọn niềm hiếu trung.

             Thánh Thi Kinh Sáng CN I Mùa Chay

 

Hồn con thương để xa rời,               

Những niềm ân oán mưu đời ghét ganh;                                                                 

Bao nhiêu vị kỷ thấp hèn,                                   

Tay Ngài giải cứu vững bền con đi.

Ngàn năm con vẫn kiên trì,                         

Yêu người yêu Chúa ngại gì nước non,

Dầu cho sông cạn núi mòn,                     

Tình con sau trước vẫn còn thiết tha.

 Thánh Thi Kinh Sách Thứ Năm Tuần I TN

Cuộc sống hiên ngang đầy can đảm,                   

Mưu thần chước qủy biết phòng xa,                       

Khổ đau không để chồn chân bước,                                              

Nẻo chính hằng theo bỏ lối tà.

Không ngừng bảo vệ luôn gìn giữ,                               

Thể xác tâm linh mãi vẹn toàn,                                      

Đốt lửa cháy bừng tin cậy mến,                                 

Tiểu trừ tà ý khỏi tâm can…

Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Hai Tuần I TN

 

Cho con được tràn đầy thanh thản,           

Đổi mới con xán lạn chói lòa,                       

Chẳng chi xảo trá điêu ngoa,                          

Sạch từ vạn ý sạch ra muôn lời.

Ngày sáu khắc êm trôi lặng lẽ,                   

Chúa ngăn ngừa chẳng để phút giây,                       

Tay chân miệng lưỡi hình hài,                      

Buông theo tội lỗi mà đầy bợn nhơ.

Chúa theo dõi đường tơ kẻ tóc,                  

Nhìn xem ta thấu suốt ngọn nguồn,             

Công to việc nhỏ ngàn muôn,                                  

Từ bình minh tới hoàng hôn rõ ràng.

Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Năm Tuần I TN

 

Ước mong đời sống có tình,                       

Sầu thương vương nhẹ như hình mây bay, 

Rồi ra phải trái có ngày,                                          

Ai đời đi trả nợ nần chẳng vay,

Phù sinh một phút trắng tay,                               

Hơn nhau một chút dở hay ở đời,                      

Xét đoán là việc Chúa Trời,                                                

Ai mà kết án những người anh em,

Mặt mình cũng có lọ lem,                                             

Tiên vàn lo rửa pha dèm làm chi?                                 

Hận thù hãy mau lấp đi,                                                              

Yêu thương xây dựng khắc ghi trí lòng,  

Sống sao đáng được khoan hồng,                              

Trong ngày thẩm phán chí công sau cùng.


 

[10] Vaticanô II, Đức Ái hoàn hảo, 28/10/1965, số 12.

[11] JP II, Pastores Dabo Vobis, 25/3/1992, số 29.

[12] Vaticanô II, Optatm Totius, 28/10/1965, số 9-11.

[13] Vaticanô II, Presbyterorum Ordinis, 7/12/1965, số 15-16.

[14] Bộ Giáo dục Công giáo, Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, 6/1/1970, số 48.

[15] Vaticanô II, Vui Mừng và Hy Vọng, 7/12/1965, số 1.

[16] Phụ Lục: Thủ dâm trẻ nít và tuổi dậy thì.

[17] John Paul II, Pastores Dabo Vobis, số 69.

[18] John Paul II, Pastores Dabo Vobis, số 82.

[19] NCCB, The Program of Priestly Formation, p.31.

[20] John Paul II, Pastores Dabo Vobis, số 60 và 66.

[21] Đào Tạo Linh Mục: Nguồn Canh Tân Giáo Hội, ĐCV Huế (1995), trang 198-199.

[22] NCCB, the Program of Priestly Formation … ibid., p.33

[23] Matthew 18, 15-17; Luke 17,3; John 8,17; 1 Timothy 5,19; 2 Corinthians 13,1

 

VỀ MỤC LỤC

MUA LÁNG GIỀNG GẦN

 

 Khi nói: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” thì các cụ ta có ý ám chỉ tính cách quan trọng trong tình nghĩa thuận hòa lối xóm, ngày ngày đi về thấy nhau, tháng năm gần gũi với nhau.

 Trong Kinh Thánh cũng ghi một câu tương tự: “Far better a neighbor that is near than a brother far off.”

Trong khi đó thì Giám đốc Stephen Glaude của Hiệp Hội Hàng Xóm Quốc Gia tại Thủ đô Washington, Hoa Kỳ, lại thực tế hơn: “Hàng xóm là một loại bảo hiểm có giá trị tương đương với bảo hiểm tài sản, hỏa hoạn hoặc sức khỏe”.

Và theo hiền triết Khổng Tử: “Lý nhân vi mỹ. Trạch bất xử nhân, yên đăc trí”. Xóm có nhân hậu là xóm tốt. Người chọn chỗ ở mà chẳng chọn xóm nhân hậu thì làm sao gọi là trí được.

Thực vậy, hài hòa hàng xóm láng giềng không những cần thiết mà còn có lợi cho sức khỏe. Cơ quan Y tế Thế giới định nghĩa sức khỏe tốt là sự vẹn toàn về thể xác, tinh thần vài hài hòa xã hội, trong đó có hòa nhập với những người sống trong cùng khu phố.

Các nhà chuyên môn y khoa học cũng đồng ý là hàng xóm tốt giúp đời sống an bình hơn. Có nghiên cứu cho hay nơi nào dân chúng sống hòa hoãn với nhau thì bệnh tim cũng ít. Họ không bị ảnh hưởng của những căng thẳng trong giao tế giữa những người lân cận.

Thử tượng tượng sống cạnh một gia đình mà họ thường xuyên “hang thịt nguýt hang cá”, dòm ngó sang nhà mình, bình phẩm điều này, chê bai điều kia, vặn nhạc ồn ào, xe đậu bừa bãi thì làm sao mà đời sống của mình thoải mái, ăn ngon ngủ yên cho được.

Ngược lại, khi nấu bát canh chua, thiếu quả cà to mát mà lối xóm sẵn sàng “có đây”,tiếp tế. Cần nhờ để mắt coi chừng nhà khi đi nghỉ hè mà họ sẵn sàng nhận lời. Cần thợ sửa xe kinh nghiệm mà họ ân cần giới thiệu một nơi…thì đời sống chắc là nhẹ nhàng dễ chịu hơn…

Tại Hoa Kỳ, sự quan trọng của tình nghĩa hàng xóm láng giềng đã được quốc hội biểu quyết và các Tổng Thống  Nixon, Ford và Carter ký ban tuyên cáo Ngày Quốc Gia Hàng Xóm Tốt “National Good Neighbor Day” vào năm 1978. Đó là ngày Chủ Nhật thứ tư của tháng 9. Tới năm 2003, Thượng viện Hoa kỳ đổi sang ngày 28 tháng 9 hàng năm.

Mà muốn trở nên hàng xóm tốt với nhau cũng không phải là khó thực hiện. Có những điều làm vui lòng nhau thì cũng có nhiều việc mang lại cảnh “bằng mặt mà không bằng lòng”, bất bình lối xóm.

Làm vui lòng nhau:

- Trước khi dọn vào tố ấm mới, ghé qua mấy nhà kế cận thân thiện tự giới thiệu, hỏi han vài điều về lối xóm, xã giao “vườn nhà ông bà chăm sóc giản dị mà đẹp đấy nhỉ!” hoặc tôi thích mầu sơn phía trước nhà ông bà, rất “bắt mắt”.

- Khi dọn tới rồi thì lần lượt “hello” từng nhà, làm quen. Vì không gì dễ dàng để giải quyết khó khăn có thể xảy ra sau này là nếu ta đã biết qua về họ và họ cũng biết ta ra sao. Đôi khi tìm ra được người có cùng ngành nghề, sở thích thì cũng vui hơn.

- Cởi mở trò chuyện với lối xóm, giúp đỡ họ khi thấy cần, nhất là với người tuổi cao hoặc cháu bé. Gửi bà hàng xóm một thiệp chúc mừng mới sanh baby. Giúp bác cao tuổi lấy báo mỗi sáng. Nếu lối xóm có tập tục Block Party thì vui vẻ tham gia hoặc tạo ra thói quen hữu ích này để có cơ hội gặp nhau.

- Để ý tới lối xóm, canh chừng có sự việc bất thường xảy ra. Một người lạ khênh vật quý từ một ngôi nhà mà chủ nhân đi nghì mát. Một lão nhân mọi ngày vẫn ra nhặt báo, đột nhiên vắng mặt hai, ba ngày?  Mình để ý tới hàng xóm thì họ cũng trông chừng cho mình.

- Giữ vườn tược nhà cửa tươm tất, sạch sẽ. Nhặt bỏ lon nước, giấy quảng cáo, báo cũ, đậu xe vào lối đi nhà mình, đóng cửa nhà xe khi không cần mở.

- Thấy một gia đình mới dọn tới, sẵn sàng tiếp tay dỡ bốc vật dụng, bàn ghế, mang biếu một bữa cơm mà học chưa kịp nấu.

- Nếu có ý định làm một hàng rào giữa hai nhà thì cũng cho lối  xóm hay trước và đề nghị thay phiên gìn giữ sơn phết của chung cho đẹp mắt mọi người.

- Mượn nhau cái kìm, cái búa, bơm bánh xe đạp thì nhớ mang trả càng sớm càng tốt với lời cám ơn. Thay thế vật hư hao hoặc lau chùi sạch sẽ trước khi hoàn cố chủ

- Định liên hoan họp mặt đông người, nên cho lối xóm hay, xin sự thông cảm vì nhiều xe đậu cản lối đi, người ra vào tấp nập, con trẻ chạy loăng quăng la hét. Cho lối xóm số điện thoại của mình để kêu khi có xe cản lối ra vào hoặc có điều muốn nói. Hãy để họ kêu mình trước khi họ kêu cảnh sát. Họ than phiền thì giải quyết ngay.

- Nuôi vài con chó con mèo làm bạn thì cũng đừng để chạy rông nhà này nhà khác, moi móc thùng rác, sủa cắn om sòm nửa đêm, về sáng.

Đưa chó dạo chơi, chạy bộ với dây dắt chó, thánh toán “của thừa” do chó thải ra trên bãi cỏ đường đi để người khác đừng dẵm phải.

- Hàng xóm tốt làm cuộc sống của mình dễ chịu hơn, nhưng đừng quên đó là con đường hai chiều, có qua có lại mới toại lòng nhau. Vả lại, đã là hàng xóm thường thì phải phụ thuộc với nhau dù khác chủng tộc, tôn giáo, nghề nghiệp. Nhớ giao hữu nhưng vẫn tôn trọng tính cách riêng tư lối xóm.

- Anh hàng xóm có cái xe cũ rích nằm cạnh nhà cả mấy năm chuột bọ làm tổ, rác rưởi tung tóe, thì thay vì kêu cảnh sát, nhẹ nhàng góp ý là tôi sẽ giúp ông kéo nó đi, để lâu e rỉ xét, vừa kém mỹ quan vừa đưa tới rủi ro cho sức khỏe các cháu.

 Và mích lòng nhau:

- Lái xe ra vào ào ào nhanh như gió.

- Thùng rác lăn lóc trước cửa cả tuần lễ không mang vào

- Sớm tinh sương, tối 9, 10 giờ máy cắt cỏ chạy ầm ầm.

- Đậu xe lấn nát sân cỏ đẹp nhà người.

- Con trẻ chơi nhạc quá to, party quá trễ.

-Chơi đêm về khuya, rượu say lái xe lạng quạng, dập cửa xe cửa nhà rầm rầm, la hét người phối ngẫu, bầy con om sòm…

Kết luận

Hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau.

Hàng xóm tốt đôi khi không được tán thưởng nhưng luôn luôn được để ý. Tâm lý con người thường có thói quen truyền miệng rỉ tai, “buôn lê” về người hàng xóm xấu chứ ít khi nói tới  người hàng xóm tốt.

Và một chuyện vui hy vọng chẳng bao giờ xảy ra ở khu phố nhà mình:

Hai người láng giềng trò chuyện, một người nói:

- "Tôi rất tiếc là mấy con gà nhà tôi đã mổ hết những hạt hoa vừa gieo bên vườn nhà bác".

- Ôi, chuyện nhỏ thôi mà bác ơi. Nhân tiện cũng xin bác thứ lỗi cho, con Vện nhà tôi đã cắn chết mấy con gà ấy rồi.

- Không sao, tối qua bà nhà tôi đã lỡ chẹt chết con chó nhà bác bằng ôtô.

- Tôi biết rồi, vì thế lúc tôi cưa cây tôi cũng đã cưa thủng lốp xe của bà nhà.

- Vậy à! Nhân tiện tôi xin hỏi nhà bác mua bảo hiểm hỏa hoạn chưa đấy?”

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức, Texas-Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC
SỰ HỢP LÝ CỦA THƯỢNG ĐẾ Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Báo “Kiến Thức Ngày Nay” số 636, ra ngày 10 tháng 4 năm 2008, trong mục “suy ngẫm”, tác giả Hải Âu đã sưu tầm được một mẩu ngăn ngắn, mà gã xin mượn tạm để trình làng:

“Thử nghĩ mà xem, Thượng Đế cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý, nhưng sao chúng ta lại không sử dụng nó theo đúng ý của Ngài:

- Ngài đặt hai mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.

- Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.

- Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng và một cái lưỡi mềm mại, vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những lời khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều hơn nghe và nói những lời sâu hiểm là tổn thương người khác.

- Ngài đặt bộ não chúng ta trong một hộp sọ vững chãi vì Ngài muốn chúng ta nên tích lũy tri thức, những thứ chẳng ai có thể lấy đi, chứ không phải chỉ chăm lo tích lũy những của cải bên ngoài, những thứ dễ dàng bị mất mát.

- Ngài đặt trái tim chúng ta nằm trong lồng ngực, vì Ngài muốn những tình cảm yêu thương giữa những con người phải được xuất phát và lưu giữ tận nơi sâu thẳm trong cõi lòng, chứ không phải ở một nơi hời hợt bên ngoài.

Để thực hiện đúng với đề mục “suy ngẫm” mà người sưu tầm đã mong muốn,  gã sẽ ngẫm suy về ba cơ quan trên khuôn mặt của mỗi người, đó là mắt, tai và miệng, còn bộ óc và trái tim, xin khất tới một lần khác. 

TRƯỚC HẾT LÀ HAI CON MẮT 

Đây là một bộ phận thường được phe đờn bà con gái tận tình chiếu cố và ra sức làm đẹp.

Về lông mày, người ta nắn nót tỉa bớt những cọng mọc vô tổ chức, để có được hàng lông mày xinh xinh như chiếc lá liễu. Có kẻ còn chịu khó nhổ phắt đi, rồi xâm vô đó, để có được hàng lông mày vừa đẹp như ý muốn, lại vừa bền vững với  thời gian. Về lông mi, người ta cũng chịu khó đeo thêm hàng mi giả, để mỗi khi chớp mắt, thì ra dáng…con nai vàng ngơ ngác. Về màu sắc, người ta tô quầng cho thêm phần âm u huyền bí, người ta nhỏ thuốc cho thêm phần ngây thơ mơ mộng…

Ngoài ra, để bảo vệ cũng như để làm đẹp cho cặp mắt, người ta còn tròng thêm cho chúng những cặp kính, đủ mọi kích cỡ, đủ mọi màu sắc. Xanh, xám, hồng…Giống như những thiên kiến, những màu sắc này phần nào ngăn trở, khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ sự thật.

Tuy nhiên điều quan trọng là công dụng của cặp mắt. Dĩ  nhiên, mắt là để nhìn. Nhưng nhìn cái gì mới là vấn đề.

Thiên hạ thường bảo:

- Con mắt là cửa sổ của linh hồn.

Khung cửa sổ được mở ra để đón nhận những tia nắng hồng cho căn phòng bớt tăm tối và những luồng gió mát cho căn phòng thêm phần thông thoáng và dễ chịu. Cũng vậy, cặp mắt được mở ra để đón nhận những hình ảnh đẹp, thâu lượm những kiến thức làm giàu cho bản thân và cuộc sống.

Tuy nhiên, như khung cửa sổ phải lập tức đóng lại khi cuồng phong nổi lên và cơn mưa trút xuống, chúng ta cũng phải nhắm mắt lại trước những hình ảnh xấu xa, làm vẩn đục tâm hồn và làm nhơ nhớp cuộc sống. Chính vì thế, một tác giả đã viết:

- Cặp mắt là mai mối của tội lỗi.

Từ đó gã hiểu được rằng tại sao Đức Kitô lại có một thái độ thật nghiêm khắc:

- Nếu mắt phải của ngươi làm cớ cho ngươi sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. (Mt 5,29).

Viết tới đây, gã nhớ tới một mẩu truyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”, đại khái như thế này:

Lư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh, là người tuyệt đẹp và có đức hạnh. Khi còn trẻ, ông hàn vi lắm. Lúc lâm bệnh nặng tưởng chừng như đã sắp chết, ông gọi Lư thị đến mà bảo:

- Tôi bị bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ, không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tế với người chồng sau.

Lư thị nghe nói, nức nở khóc. Đoạn vào trong màn khoét một mắt bỏ đi, có ý tỏ cho chồng biết rằng dù chồng bất hạnh có chết, cũng quyết chí không lấy ai nữa.

Chẳng bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh. Sau ông thi đỗ, làm quan đến chức tể tướng. Ông một niềm yêu mến, kính trọng Lư thị vô cùng, không hề lấy một tì thiếp nào nữa. Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư thị có tính hay ghen.

Chính vua Đường Thái Tôn cũng muốn thử lòng Lư phu nhân. Một hôm cho hoàng hậu gọi vào bảo:

- Theo phép thường các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một mỹ nhân.

Lư thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận, mắng rằng:

- Nhà ngươi không ghen thì sống, mà ghen thì chết.

Rồi sai người đưa cho một chén rượu, giả làm chén thuốc độc, phán rằng:

- Đã vậy thì phải uống chén thuốc độc này.

Lư thị không ngần ngại chút nào, cầm chén, uống hết ngay. Vua thấy thế, bèn nói:

- Ta cũng phải sợ, huống nữa là Huyền Linh.

Trở lại với sự an bài của Thượng Đế. Ngài đã đặt cặp mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.

Kinh nghiệm vốn cho chúng ta thấy: Người già thường sống bằng quá khứ, nên thích ngoái cổ nhìn lại phía sau.

Thực vậy, trong khi ngồi nói chuyện với những người đã mang nặng tí tuổi đời, gã thấy các cụ ta luôn nhắc tới một thời oanh liệt, một dĩ vãng oai hùng và một ngày xưa hoàng thị của mình. Hồi ấy ông thế này, bà thế nọ, chứ đâu như bọn nhãi ranh bây giờ.

Khi nhìn lại những sự việc ở phía sau như thế, người ta thường có hai thái độ:

Thái dộ thứ nhất, đó là huênh hoang và tự đắc với những thành công mà mình đã thâu lượm được, để rồi ngủ quên trên chiến thắng của mình lúc nào cũng không hay.

Thái độ thứ hai, đó là bực bội và cay cú với những thất bại mà mình đã gặp phải, để rồi khơi dậy mối hận thù tưởng chừng như đã bị xóa nhòa với thời gian.

Dĩ nhiên, gã không phủ nhận vai trò của dĩ vãng, như người xưa đã nói:

- Vô cổ bất thành kim. Không có cũ thì làm sao có mới.

Nhìn lại dĩ vãng, để rồi chắt lọc ra những bài học, những kinh nghiệm quí giá cho bản thân, là đều đáng trân trọng. Nhưng nhìn lại dĩ vãng, để rồi thỏa mãn với những chiến thắng, hay hậm hực với những thất bại, mà quên mất hiện tại, thì đó lại là điều bất ổn cần phải được xem xét lại.

Trong khi đó, người trẻ thường sống bằng tương lai, nên luôn hướng nhìn về phía trước, để rồi đưa ra những sáng kiến, góp phần xây dựng một ngày mai tươi sáng hơn.

Dĩ vãng thì đã qua đi. Có lấy làm vinh dự và hãnh diện hay đắng cay và chua xót, thì cũng không thể nào níu kéo lại được. Hiện tại mới thực sự cần thiết, bởi vì tương lai được bắt đầu từ trong hiện tại và ngày mai đang bắt đầu từ hôm nay. 

TIẾP ĐẾN LÀ HAI LỖ TAI

Làm đẹp cho vành tai của mình không còn là phạm vị độc quyền của phe đờn bà con gái, mà cánh đờn ông con giai cũng nhảy vô ăn có. Qua phim ảnh và sách báo, cũng như khi đi ra ngoài đường, gã đã thấy nhiều anh con giai cũng xỏ lỗ tai, đeo vào đó một chiếc khoen.

Người ta không phải chỉ xỏ một lỗ, mà đôi khi còn xỏ hai ba lỗ trên vành tai của mình, rồi quặc vào đó những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh. Một đôi bông, một chiếc vòng, thậm chí có cả những cây thập giá được treo lủng lẳng, tòng teng và đong đưa.

Mục đích của đôi tai là để nghe. Thế nhưng, trong phạm vi này, gã ghi nhận được ít nữa là hai điều bất ổn.

Điều bất ổn thứ nhất, đó là chúng ta chỉ thích nghe những lời khen ngợi và ca tụng, hay những lời có lợi cho chúng ta, thậm chí cả những lời nịnh bợ và tâng bốc. Những lời nói kiểu này được  coi như là…khoái lỗ nhĩ, nên dễ dàng được chấp nhận.

Các linh mục Âu Châu ngày xưa làm việc tại Việt Nam thường được  gọi là các Cố Tây. Và một vị cố Tây, khi được nghe những lời ca tụng và nịnh bợ như vậy, đã phát biểu như sau:

- Mặc dù thầy biết nó “pĩnh” thầy, nhưng thầy vẫn…thích.

Điều bất ổn thứ hai, đó là chúng ta dễ nghe theo những người mà chúng ta có cảm tình. Lời của những người chúng ta thương mến xem ra dễ thủng lỗ nhĩ của chúng ta hơn bất cứ ai.

Thực vậy, khi muốn xin xỏ một vị quan ông giúp đỡ việc nọ việc kia, hay ban cho một ơn huệ nào đó. Nếu ngại gặp gỡ trực tiếp. Người ta bèn chạy vòng vòng và đi qua cửa hậu, bằng cách đưa phong bì hay biếu xén quà cáp cho quan bà và nhờ quan bà nói tiếp. Một lời của quan bà phán ra sẽ có giá trị gấp ngàn vạn lần lời của dân vai nặng chân trơn.

Cũng theo thể thức ấy, khi có việc phải nhờ cậy cha sở hay một đấng bậc nào đó, chúng ta thường nhờ một vị trung gian bàu cử, chẳng hạn như ông chánh, ông trùm. Những lời của ông chánh hay ông trùm thường được các ngài dễ dàng lắng nghe hơn những lời đường đột của chúng ta.

Thế nhưng, sự  an bài của Thương Đế đối với đôi tai thì lại hoàn toàn khác hẳn. Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.

Trước hết, Ngài không phải chỉ muốn chúng ta đón nhận những lời ngợi khen, mà còn phải lắng nghe cả những lời phê bình, chỉ trích, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:

- Ai khen ta mà khen phải, thì đó là bạn ta. Còn ai chê ta mà chê phải, thì đó là thầy ta.

Vũ hầu nước Ngụy cùng với quần thần bàn việc nước. Việc gì vua nói cũng phải, quần thần không ai giỏi bằng. Lúc lui chầu, Ngụy hầu ra dáng hớn hở lắm. Ngô Khởi bèn tiến lên và nói:

- Cận thần ai đã đem chuyện Sở Trang vương nói cho nhà vua nghe chưa?

Vũ hầu hỏi:

- Chuyện Sở Trang vương là như thế nào?

Ngô Khởi thưa:

- Khi Sở Trang vương mà bàn việc, mà phải hơn quần thần, thi cho lui chầu. Có người hỏi: Sao vua lại lo? Sở Trang vương nói: Ta bàn việc mà quần thần không bằng được ta, cho nên ta lại lo. Cổ nhân có câu: Các vua chư hầu ai có thầy giỏi thì làm được vương, ai có bạn giỏi thì là được bá, ai có người quyết đoán cho mọi việc ngờ vực thì còn nước, ai bàn việc không còn ai bằng mình thì mất nước. Ta nghĩ ngu như ta mà quần thần cũng không ai bằng, thì nước ta có lẽ sẽ mất thôi. Bởi thế ta lo…Ấy cũng một việc giống nhau. Sở Trang vương thì lo mà nhà vua thì lại mừng.

Vũ hầu nghe vậy, thì áy náy vái tạ và nói:

- Trời sai nhà thầy đến bảo cái lỗi cho ta.

Riêng đối với những lời mời mọc, khả dĩ làm hoen ố cõi lòng và làm vẩn đục tâm can tì phế, chúng ta cần phải can đảm gạt bỏ và dứt khoát nói không.

Đời thượng cổ có ông Hứa Do, là một nhà ẩn dật ở trong chằm Bái trạch. Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra, xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.

Sau vua Nghiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra là Tổng trưởng cả chín châu. Hứa Do thấy vậy, không muốn nghe nữa, bèn ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai. Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ dắt trâu xuống bờ sông gặp Hứa Do và hỏi:

- Vì việc gì mà bác phải rửa tai như vậy?

Hứa Do thuật chuyện. Sào Phủ bèn gò cổ trâu lại mà nói rằng:

- Ta toan cho trâu uống nước nơi đây, nhưng lại e bẩn cả miệng trâu.

Nói đoạn, dắt trâu lên quãng sông trên mà cho uống nước.

Ngoài ra, trong những cuộc xích mích hay bất đồng, chúng ta cần phải có thái độ khách quan, nghĩa là lắng nghe cả hai phe, phe ta cũng như phe địch, để có thể nắm vững sự thật, rồi đi tới một sự hòa giải tốt đẹp.

Gã quen một anh bạn chẳng may bị điếc lỗ tai bên trái, thành thử mỗi khi muốn nói với anh ta điều gì, thì phải kề miệng vào lỗ tai bên phải của anh ta mà nói, chứ còn nói vào lỗ tai bên trái, thì anh ta sẽ chẳng hiểu gì cả. Cũng vậy, mỗi khi muốn nghe điều gì cho thấu đáo, anh ta phải chìa cái lỗ tai bên phải về phía người nói, giống như cái đài ra đa hướng tới nơi phát tín hiệu…

Trong cách cư xử thường ngày, chúng ta luôn bị tình cảm chi phối, làm cho  những phán đoán trở nên lệch lạc, bởi vì chúng ta dễ dàng nghe theo phe ta, là những người họ hàng hay bè bạn thân cận, những người mà chúng ta yêu mến.

Đứa bé nghịch ngọm trong giờ giáo lý, bị ông thầy giúp xứ đét cho vài roi. Đứa bé vừa mếu vừa khóc, chạy thẳng về nhà méc với ông bố. Chẳng cần phải suy nghĩ hỏi han, ông bố liền nổi giận đùng đùng, chạy khắp xóm và chửi đổng ông thầy một chặp:

- Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con nhà người ta như thế à.

SAU CÙNG LÀ CÁI MIỆNG 

Nơi cái miệng, bên ngoài là vành môi, bên trong là cái lưỡi. Vành môi cũng là điểm được các bà các cô chăm sóc một cách kỹ lưỡng. Người ta có thể giải phẫu cho vành môi nhỏ lại. Người ta cũng có thể xâm cho vành môi to ra.

Hơn thế nữa, người ta còn chế tạo biết bao nhiêu thứ son, đủ màu đủ sắc để trang điểm cho vành môi. Có màu đỏ chói như tiết canh gà. Có màu xám ngắt như thịt trâu ươn…Ai thích chọn màu nào, thì xin tùy hỉ.

Cái miệng có nhiều công dụng khác nhau. Đối với những người đang ở trong quĩ đạo của tình yêu, thì cái miệng được dùng để hôn. Đối với những người đang bị kiến bò bụng, thì cái miệng được dùng để ăn. Và đối với bàn dân thiên hạ, ở mọi nơi và trong mọi lúc, cái miệng được dùng để nói.

Kinh nghiệm cho thấy: lời nói, mặc dù là phương tiện chính Chúa đã trao ban để chúng ta chuyển thông tư tưởng và ý muốn cho người khác, hầu tạo được một bầu khí hòa thuận và bắc được một nhịp cầu cảm thông, thế nhưng sai lỗi do lời nói lại là một thứ sai lỗi chúng ta thường vấp phạm hơn cả. Vì với lời nói, chúng ta có thể sai lỗi bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, bất kỳ với ai và bất kỳ qua đề tài nào. Tuy nhiên có hai thứ sai lỗi mà chúng ta thường vấp phạm hơn cả.

Sai lỗi thứ nhất, đó là nói dài, nói dẻo, nói dai. Thực vậy, trong những câu chuyện hằng ngày, gã thấy có những người luôn dành cho mình cái quyền được nói. Họ nói từ đầu đến cuối, không để cho ai chen vào. Họ nói không kịp thở và chỉ nói về mình bằng cách đề cao về những việc mình đã làm, những gì mình đã có, khiến người nghe nhiều lúc vừa khiếp lại vừa sợ.

Nhất là đối với các chị vợ. Họ thường ca cẩm về tình trạng vật giá leo thang và những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề cơm áo gạo tiền. Họ thường chì chiết anh chồng, nếu chẳng may mắc phải một sai lỗi nào đó. Tất cả là như những điệp khúc buồn được ca đi ca lại suốt ngày, ban sáng cũng như ban chiều, ban tối cũng như ban đêm.

Những người nói dài, nói dẻo, nói dai hình như đã quên mất lời người xưa căn dặn:

- Đa ngôn thì đa quá.

- Rượu lạt uống lắm cũng say,

  Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.

Sai lỗi thứ hai, đó là nói gian và nói dối, có nghĩa là nói hành nói xấu người khác.Nhiều lúc gặp nhau, chúng ta đã phát ngôn thật bừa bãi, chúng ta xả láng chỉ trích người khác, mà chẳng biết thực hư như thế nào. Chúng ta nói cho khoái cái lỗ miệng. Ai mất danh dựï, ai bị vùi xuống bùn đen cũng mặc.

Chính vì thế, Thánh Kinh đã bảo :

- Số người chết vì cái lưỡi lại nhiều hơn số người ngã gục vì gươm giáo nơi chiến trường.

Và tục ngữ dân Ăng Lê cũng nói :

- Không nọc nào độc cho bằng cái lưỡi.

Trong khi đó, ý muốn của Thượng Đế không phải là như vậy: Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những điều khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều  và nói những lời sâu hiểm là tổn thương người khác.

Chắc hẳn có lần chúng ta đã cảm thấy bực bội và tức tối trước những luồng dư luận xuyên tạc, trước những miệng lưỡi thâm độc của người đời. Vì dư luận vốn thường luận dư. Lời đồn thổi bao giờ cũng phóng đại, tô màu, không biết đâu mà lường, bởi vì:

- Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.

Một lời nói vô ý thức có thể ví như lon dầu đổ thêm vào lửa, làm bừng lên sự tức giận, thù oán, thiêu rụi hết tình nghĩa ruột thịt cũng như lối xóm. Một lời nói vu oan có thể làm cho người khác mất hết tiền bạc, địa vị, thân bại danh liệt và đi vào chốn lao tù. Bởi đó, người xưa đã dạy :

- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.

Esope là một tên nô lệ da đen, nhưng rất được chủ là ông Santô yêu mến và kính trọng. Ngày kia có khách đến chơi, ông chủ sai Esope ra chợ mua thức ăn, nhưng không bảo phải mua những gì. Esope mua toàn các thứ lưỡi : nào lưỡi heo, nào lưỡi bò, nào lưỡi ngựa…đem về nấu nướng. Lạ miệng nên ăn ngon, ông chủ và khách khứa đều hài lòng về tài nấu nướng của Esope.

Lần sau có khách, ông chủ cũng sai Esope đi chợ và cũng không dặn phải mua những gì. Esope lại mua về toàn những lưỡi, chỉ khác ở chỗ là cách nấu nướng và thêm bớt  gia vị.

Thấy vậy, ông chủ ngạc nhiên thì Esope bèn kính cẩn làm một màn lý luận về cái lưỡi. Ông    nói :

- Ở đời, tốt hay xấu, lợi hay hại đều do việc sử dụng cái lưỡi một cách khéo léo hay vụng về.

Chính nhờ vậy, Esope được chủ quí yêu và giải thoát khỏi kiếp sống nô lệ.

Để kết luận, gã xin ghi lại một tư tưởng như sau:

- Lưỡi người khôn ngoan tạo thành danh giá, mồm kẻ ngu dại gây nên đổ vỡ tan hoang.

Gã Siêu   gasieu@gmail.com  


VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************