Bài vở góp nhặt về Linh Mục, Giám Mục
Tĩnh tâm Linh Mục Đoàn Đà Lạt: mối quan hệ giữa linh mục với các thành phần Dân Chúa khác
TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN ĐÀLẠT
“Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con” (Ga 17, 9)
TĨNH TÂM THƯỜNG NIÊN TOÀ GIÁM MỤC ĐÀ LẠT
16-22/02/2009
MỞ ĐẦU
LINH MỤC, CHỨNG TỪ SỐNG ĐỘNG CỦA NGƯỜI RAO TRUYỀN
1. TÂM TÌNH MỞ ĐẦU.
Trọng kính Đức cha Phêrô,
Kính thưa cha Tổng Đại Diện,
Kính thưa quý cha và quý thầy,
Các cha thường nói đùa rằng ba việc khó nhất trên đời là “giảng cho cụ, giải tội cho mụ, bắt ve cho chó”. Hai việc sau không biết có đúng không, nhưng việc đầu tiên quả là chính xác: giảng cho các linh mục không phải là chuyện dễ. Càng khó hơn nữa khi người nghe giảng là người quen, vì tôi biết rất nhiều cha thuộc giáo phận Đàlạt, nhất là những cha cùng thế hệ với tôi….
Nói đến đây, tôi sực nhớ đến một câu chuyện. .. Năm 1991, tôi lên Bảo Lộc dự lễ truyền chức người em linh tông là Cha Điện, chính xứ Thánh Mẫu bây giờ. Lúc đó tôi đang làm thầy. Oái oăm là hôm đó vì không mang theo phù hiệu nên tôi bị trật tự từ chối không cho vào nhà thờ. Trớ trêu là người đuổi tôi lại là một cha đàn anh Giáo Hoàng Học Viện rất quen thuộc. Tôi tự nhủ không hiểu sao ngài lại có thể cư xử lạnh lùng với tôi như thế. Đến giờ ăn, anh em nhận ra nhau, ngài mới thú thật rằng: “Chú mày bây giờ sao mà xấu xa gớm ghiếc đến thế? Anh không nhận ra chú mày là đúng rồi !”. Thưa quý cha, vị đàn anh đó chính là cha Tổng Đại Diện kính yêu của chúng ta.
Mới ngày nào còn bị gọi là “chú mày” đây làm sao tôi dám ngồi mà giảng cho ngài được ? Không chỉ có cha Tổng đại diện. Trong số các cha có mặt, còn rất nhiều đấng bậc thầy, chẳng những là bậc thầy về tri thức, mà còn về linh đạo, tu đức, linh thao; còn rất nhiều bậc đàn anh, nhất là bạn bè đồng môn, đồng sự. Nếu không có một lý do đủ mạnh, chắc chắn tôi chẳng dám...
Nhưng tôi vẫn vâng lời Đức cha Phêrô, vẫn đến đây để giảng... Trước hết, vì Đàlạt là nơi tôi đã sống ba năm cuối cùng của tiểu chủng viện (Đức cha Nha Trang gửi lên học trường Adran từ 1968). Đàlạt cũng là nơi tôi sống 5 năm đại học (1970-1975) và bảy năm Giáo Hoàng Học Viện (từ 1970 đến khi giải thể năm 1977). Trở lại Đà lạt, đối với tôi giống như một cuộc hành hương về với cội nguồn tri thức, nơi các vị ân sư đã đầu tư vốn liếng hành trang để tôi vào đời sứ mệnh, nhất là về với với cội nguồn ân nghĩa, vì Đàlạt cũng là xuất phát điểm nhiều cuộc hành trình tiến về Thanh hóa, dẫn đầu là Đức cha cố Batôlômêô Nguyễn sơn Lâm, rồi Đức cha Phêrô Nguyễn văn Nhơn, Đức cha Phaolô Nguyễn văn Đọc, của rất nhiều thế hệ linh mục, chủng sinh, nam nữ tu sĩ. Những chuyến hành trình đó đã hồi sinh giáo phận Thanh hóa sau một chặng đường dài bị thời thế vùi dập. Vì thế, sự có mặt của tôi hôm nay là để thay mặt giáo phận Thanh hoá nói lên lời cám ơn sâu xa chân thành đối với giáo phận Đà lạt.
Như vậy, tôi đến đây là vì tình nghĩa nhiều hơn là vì khả năng chuyên môn, bởi vì thú thật, tôi không có nhiều kinh nghiệm về giảng tĩnh tâm. Mãi đến 1992 tôi mới được chịu chức linh mục. Năm 1993, bề trên Nha trang sai tôi đi làm phó một giáo xứ ở Phan Rang rồi hai năm sau đi du học. Sau khi nhận nhiệm vụ Giám mục Thanh Hoá, tôi mới bắt đầu tập giảng tĩnh tâm...
2. TRƯỚC NGƯỠNG CỬA CUỘC TĨNH TÂM
Tuy nhiên, với số vốn kinh nghiệm ít ỏi đó, tôi đã nhận ra điều này: người giảng tĩnh tâm không phải là nhân vật chính, chỉ là khí cụ Chúa dùng. Khí cụ hay dở, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là tác động của Chúa Thánh Thần – Đấng xử dụng khí cụ – và thái độ đón nhận của người tĩnh tâm. Người giảng tĩnh tâm chỉ là “ngón tay chỉ mặt trăng”, giữ vai trò thứ yếu là cố vấn cho người tĩnh tâm khám phá chân lý của vầng trăng là chính Thiên Chúa.
Về phía người tĩnh tâm, qua kinh nghiệm thu tập được ở một số nơi, tôi có cảm tưởng hầu hết đều có thói quen “khoán trắng” mọi sự cho người giảng và cho ban tổ chức. Chúng ta có cảm tưởng sốt sắng khi nghe bài giảng bùi tai. Chúng ta có cảm tưởng cuộc tĩnh tâm thành công nếu được ăn ngon ngủ kỹ, được ở phòng ốc tiện nghi, vừa ý. Thái độ đó là thái độ thụ động, lệ thuộc ngoại nhân và ngoại cảnh.
Không thể phủ nhận rằng những yếu tố đó góp phần đáng kể vào sự thành công của một cuộc tĩnh tâm. Nhưng đúng ra, chúng chỉ giữ vai trò hỗ trợ chứ không quyết định sự thành công. Thành công của cuộc tĩnh tâm lệ thuộc phần lớn vào tinh thần tự nguyện tự giác của người tĩnh tâm. Tĩnh tâm là “vào sa mạc với Chúa” nên người tĩnh tâm cần phải tự nguyện khổ chế, tự nguyện thinh lặng, tự nguyện tiết giảm những nhu cầu bình thường của thế xác vốn “nặng nề”, ngõ hầu tạo điều kiện thuận lợi cho tinh thần được “hăng hái nhiệt thành”
Cuộc tĩnh tâm đúng nghĩa đòi chúng ta phải có thái độ của người “tầm sư học đạo”, nghĩa là tự ý và chủ động đi tìm kiếm “Đấng có lời ban sự sống”, đích thân tiếp xúc với Ngài. Thật ra, Chúa không đòi chúng ta phải làm tất cả. Ngài chỉ đòi chúng ta tỏ thiện chí muốn gặp Ngài. Một khi chúng ta đến được với Ngài rồi, Ngài sẽ làm tất cả mọi sự còn lại. “Hỡi những ai vất vả lao nhọc, hãy đến với ta, ta sẽ bổ sức cho, và tâm hồn anh em sẽ được an nghỉ”.
Cũng rất có thể khi muốn tĩnh tâm cách nghiêm túc, chúng ta lại rơi vào căn bệnh ngược lại. Chúng ta quá chủ động, hay nói cho rõ hơn, chúng ta quá tự tin về kiến thức của mình. Trong thư gửi người chị Céline, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu viết: “Tất cả mọi thứ diễn văn dù hay ho hùng hồn tới đâu cũng không thể làm phát sinh Tình yêu Chúa trong một tâm hồn nếu không có ơn Chúa kích thích bên trong”.
Martin Heidegger, triết gia nổi tiếng nhất của thế kỷ 20, khi định nghĩa triết học, đã cho rằng người ta thường lẫn lộn “triết học” với “triết lý”. Triết học thuộc lãnh vực kiến thức; triết lý thuộc lãnh vực cuộc sống. Có những người có kiến thức triết học nhưng không phải là triết nhân, không sống triết lý. Tương tự như thế, chúng ta thường lẫn lộn “kiến thức tu đức” với “lòng đạo đức”. “Kỹ thuật nguyện ngắm” khác hẳn với “trao đổi thân mật”. Thiên về kỹ thuật, chúng ta trở thành người lý luận độc thoại “về Chúa” chứ không phải đối thoại “với Chúa”. Nói theo ngôn từ ngữ học, Chúa vẫn chỉ là đại danh từ “ngôi thứ ba”, tức người vắng mặt, chứ không phải là “ngôi thứ hai”, người đang trực tiếp đối thọai với chúng ta.
Bằng mọi giá, cuộc tĩnh tâm phải là một cuộc gặp gỡ sống động và thầm kín giữa chúng ta với Chúa Giêsu. Muốn vậy, chúng ta cần phải tạo được một cõi thinh lặng đủ để cách ly khỏi thế giới đời thường vốn rất ồn ào không cho phép chúng ta thực sự tĩnh tâm.
Một trong những tiến bộ kỳ diệu nhất của khoa học thời đại chúng ta là tin học. Chỉ trong tích tắc, chúng ta có thể liên lạc với người thân ở xa hàng nửa vòng trái đất. Nhưng những kỳ diệu đó đôi khi cũng là một con dao hai lưỡi. Nếu điện thoại giúp chúng ta thông tin dễ dàng, nó cũng quấy nhiễu chúng ta trong những sinh hoạt cần thinh lặng như cuộc tĩnh tâm.
Chúng ta có thể duyệt lại một vài yếu tố đại loại như thế để tự đề ra cho mình những biện pháp giúp chúng ta thực sự lên núi với Chúa trong những ngày đặc biệt này.
3. CHỦ ĐỀ CUỘC TĨNH TÂM
Sau một vài lưu ý có tính cách “vệ sinh môi trường” trên đây, có lẽ điều mà các cha, các thầy đang thắc mắc là chủ đề cuộc tĩnh tâm. Khi nhờ tôi giảng tĩnh tâm, Đức cha Phêrô muốn tôi nói về các mối quan hệ giữa linh mục với các thành phần Dân Chúa khác. Tôi nghĩ rằng đề tài đó cũng rất phù hợp với thư chung 2007 của HĐGMVN bàn về vấn đề giáo dục Kitô giáo. Dành ra cuộc tĩnh tâm này để suy nghĩ về đề tài này cũng là cách chúng ta hưởng ứng lời kêu gọi của HĐGM cách cụ thể.
Khuôn khổ tuần tĩnh tâm không cho phép chúng ta đề cập đến tất cả mọi góc độ của một đề tài rộng lớn và phức tạp như giáo dục. Vì thế tôi chỉ xin giới hạn nội dung chia xẻ của tôi vào một vài khía cạnh của thư chung như sau:
Hơn ai hết, với tư cách là linh mục, theo ngôn từ của thư chung (2007) số 15, chúng ta phải là những “chứng từ sống động của người rao truyền” Tin Mừng…. Mỗi chúng ta vừa là đích điểm vừa là khởi điểm của việc huấn luyện. Chúng ta càng tự rèn luyện mình, càng có khả năng huấn luyện người khác”. Giáo dục luôn đi đôi với việc huấn luyện bản thân. Học phải đi trước dạy (Lc 22, 31-33). Chúng ta thường mang não trạng “thầy cả”, có nghĩa là biết mọi sự, dạy dỗ mọi người mà quên đi rằng bài chúng ta dạy phải hiệu quả đối với con người chúng ta trước. “Bao lâu còn là phần tử của Giáo hội lữ hành, chúng ta còn là học trò và còn là thầy dậy đức tin bằng chứng từ cuộc sống của chúng ta” (số 21).
Khi nói về sống đạo thư mục vụ 2006 ở số 4 của HĐGMVN nhấn mạnh rằng linh mục phải đi đầu trong mặt trận sống đạo. Cũng thế trong lãnh vực giáo dục đức tin, linh mục cũng phải là chứng từ sống động của một người đã thành công trong lãnh vực giáo dục bản thân.
Đã nói đến chứng từ là phải nói đến một cái gì rất cụ thể, sống động. Số 32 của thư chung triển khai ý tưởng này như sau: “mục tiêu hàng đầu của giáo dục Kitô giáo là đức tin. Giáo dục đức tin không những là truyền lại cho tín hữu những định tín, nhưng còn giúp cho tín hữu sống đức tin ấy trong cuộc sống cụ thể, vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết’ (Gia 2, 17)”.
Thư chung 2007 số 34 cho rằng: “con người sống trong xã hội không phải là một ốc đảo nhưng liên đới với nhau trong niềm vui cũng như nỗi sầu”. Sứ mệnh giáo dục đức tin của linh mục chúng ta chỉ thành công nếu chúng ta có quan hệ tốt với Chúa và với mọi người. Vì thế trong cụ thể, qua tuần tĩnh tâm này, chúng ta sẽ tuần tự duyệt lại những mối quan hệ chính tạo thành cuộc sống linh mục. Trước hết là mối tương quan của chúng ta đối với bản thân chúng ta, điều mà chúng ta cần phải rà xét lại trước ngưỡng cửa của bất kỳ cuộc tĩnh tâm nào. Mối quan hệ thứ hai có tính căn bản hơn, đó là quan hệ của chúng ta đối với Chúa Giêsu, “suối nguồn Tình yêu” (số 2), “điểm quy chiếu và là chuẩn mực giúp nhận định các giá trị căn bản của Tin Mừng” (thư chung 2006 số 4). Từ đó chúng ta có thêm ánh sáng để nhìn lại các mối tương quan khác đối với bề trên Giáo Hội, với anh em linh mục và với giáo dân.
Mỗi mối tương quan sẽ là một đề tài để chúng ta suy niệm trong tuần tĩnh tâm này. Như vậy, trừ bài mở đầu và bài kết thúc, chúng ta có tất cả năm bài. Dĩ nhiên, còn rất nhiều mối tương khác không kém phần quan trọng, chẳng hạn tương quan với nữ giới, giới trẻ, với chính quyền, với các tôn giáo bạn...nhưng khuôn khổ thời gian không cho phép chúng ta bao quát tất cả.
Chúa Giêsu đã thưa với Chúa Cha: “vì họ, con xin thánh hiến chính mình con” (Ga 17, 9). Vì các môn đệ, Chúa Giêsu đã tôi luyện hun đúc bản thân mình để trở thành lợi ích cho các môn đệ. Tôi nghĩ rằng đó cũng là ơn mà chúng ta rất cần trong đời sống linh mục của chúng ta và cách riêng trong tuần tĩnh tâm này. Vì con chiên, chúng ta cũng xin Chúa giúp chúng ta biết mài dũa huấn luyện chính bản thân mình.
Với những lưu ý có tính cách cương lĩnh đó, tôi kính chúc các cha, các thầy một tuần tĩnh tâm đầy dấu ấn thiêng liêng.
------------------------------------------
BÀI II
TƯƠNG QUAN VỚI BẢN THÂN
Sau bài mở đầu có tính cách cương lĩnh cho cuộc tĩnh tâm, chúng ta chính thức bước vào đề tài thứ nhất: mối tương quan của chúng ta với bản thân. Trong bối cảnh năm giáo dục đức tin, thể theo tinh thần của thư chung, mọi sự phải bắt đầu bằng bản thân, đúng như cha ông Việt Nam đã nói “tri kỷ tri nhân bách chiến bách thắng”. Muốn phục vụ đắc lực hơn, chúng ta phải biết mình rõ hơn, phải có một thái độ quan hệ mới mẻ hơn. Chúa Giêsu hoàn toàn có lý khi tuyên bố “sự thật sẽ giải phóng anh em”. Không biết mình đang ở đâu, đang trong tình trạng nào, không biết những thế lực nào đang xiềng xích con người mình, không thấy mình đang bị tệ nạn nào kiềm toả khống chế, chúng ta không thể nào thực hiện được cuộc giải phóng triệt để mà chúng ta hằng mong đợi mỗi lần chúng ta tĩnh tâm. Con người là thước đo vạn vật. Thước không chuẩn thì đo cái gì cũng sai. Nếu chúng ta sai lầm về chính bản thân chúng ta, mọi quan hệ còn lại đương nhiên cũng bị lệch lạc méo mó theo. “Linh tại ngã bất linh tại ngã” là vậy.
Ơn mà chúng ta cần xin trong giờ suy niệm này là phát hiện được con người thật của mình với tất cả những ưu điểm và cả những tật nguyền của nó. Nhờ biết mình cách chính xác, chúng ta hy vọng tìm được những biện pháp cụ thể để cải thiện đời sống. Nói một cách cụ thể hơn, mỗi lần chúng ta tĩnh tâm, đặc biệt là tĩnh tâm thường niên, chúng ta muốn làm lại tất cả. Đề tài này phần nào gợi ý cho chúng ta có một cái nhìn thấu đáo hơn về hiện tình tâm hồn chúng ta để từ đó, chúng ta canh cải cuộc đời chúng ta.
1. CẦN THIẾT PHẢI PHẢN TỈNH
Thật ra khái niệm tương quan với bản thân là một khái niệm triết học, theo đó, vì có khả năng “phản tỉnh”, con người có thể lấy chính mình làm đối tượng tư duy.
Các nhà khoa học cho biết cứ 7 năm, toàn bộ tế bào của con người thay đổi một lần. Chính nhờ sự thay đổi đó mà sự sống luôn luôn mới mẻ từ khi con người là một bào thai cho đến khi nó trưởng thành. Sự sống sẽ ngưng lại nếu không có thay đổi trong cấu tạo thể lý.
Về tinh thần cũng thế, trong mỗi chúng ta luôn luôn có hai cái “ngã”. Một cái “đang là” tức là hiện tình, hiện trạng của chúng ta, và một cái “phải là”, cái mà chúng ta phải vươn tới. Cần phải biết cặn kẽ về cái “đang là” chúng ta mới biết mình phải sống như thế nào để vươn tới cái “phải là”. Con người chúng ta luôn luôn là một công trình dang dở. Chúng ta có một phẩm giá phải kiện toàn. Điều đó chỉ khả thi khi chúng ta luôn luôn cảnh giác về những bất toàn của chúng ta. Số 33 thư chung HĐGMVN về giáo dục viết rằng: “Phẩm giá Kitô hữu luôn là những bài học suốt đời còn tiếp tục, vì tín hữu mãi là khách hành hương. Phẩm giá ấy đang hình thành và sẽ chỉ thành toàn vào ngày cánh chung”. Cuộc chiến khám phá và kiện toàn bản thân là một cuộc chiến liên lỉ và triệt để cho đến khi chúng ta nhắm mắt lìa đời.
Thật ra, đó chỉ là một cách diễn tả khác về khái niệm hoán cải của Thánh Kinh. Hoán cải có nghĩa là nhìn lại mình để phát hiện bất cập rồi từ đó, khắc phục và tái thiết cuộc đời trên một cơ sở mới. Đó là sứ điệp đầu tiên của Gioan Tiền Hô và của Chúa Giêsu. Trong Giáo Hội có nhiều phương pháp tĩnh tâm khác nhau nhưng phương pháp nào cũng bắt đầu bằng hoán cải. Thánh Phaolô khi ngã ngựa, đã phát hiện sai lầm quá khứ nên đã hoán cải và từ đó đã bắt đầu một sứ mệnh hoàn toàn mới. Không có lần hoán cải đó, đã không có Phaolô Tông đồ dân ngoại.
Trước mỗi thánh lễ, linh mục chúng ta đều kêu gọi giáo dân hoán cải. Câu hỏi cần đặt ra là chúng ta kêu gọi giáo dân hoán cải, nhưng chính chúng ta có thực sự hoán cải không. Đó là vấn đề chúng ta cần phải đặt ra lúc khởi đầu cuộc tĩnh tâm này. Cần phải nhìn lại quá khứ để kiểm tra xem mình đã sống đời linh mục thế nào.
2. VỀ VỚI CĂN TÍNH LINH MỤC
Câu hỏi đó đòi chúng ta phải quy chiếu về căn tính linh mục của chúng ta. Để thấy được chúng ta đã trung thành hay không, chúng ta cần phải nắm vững chúng ta phải trung thành với cái gì. “Kim chỉ nam cho thừa tác vụ và đời sống linh mục” ở số 2 định nghĩa rằng: “Do Bí Tích truyền chức, được thể hiện thông qua việc dặt tay và kinh thánh hiến của giám mục, phát sinh nơi con người linh mục một mối dây hữu thể đặc thù nối kết linh mục với Đức Kitô là linh mục tối cao và là Đấng chăn chiên lành”.
Từ ngữ quan trọng nhất trong trích đoạn trên đây là từ ngữ “hữu thể”. Có nghĩa là ấn tích truyền chức biến chúng ta thành một tạo vật mới do tương quan với Đức Kitô. Nói theo ngôn từ của Aristote thì mối quan hệ giữa linh mục và Chúa Kitô có tính cách bản thể chứ không phải là tùy thể. Trong thực tế, để hoán cải, để xét mình, để tìm lại chính mình, chúng ta cần xét xem ơn linh mục đã trở thành bản chất của chúng ta chưa, hay chúng ta xem và sống căn tính linh mục như một tùy thể.
Để đi sâu hơn, chúng ta có thể mượn hai khái niệm của triết gia Gabriel Marcel. “Có” (avoir) và “là” (être). “Là” diễn tả một cái gì thuộc bản thể, “có” là cái gì chúng ta sở hữu. Bản thể đi đôi với sự tồn tại, sở hữu có thể nay còn mai mất. Nhiều khi chúng ta không cố ý nhưng chúng ta sống tựa hồ như ơn bí tích thánh chức chỉ là những gì chúng ta sở hữu. Chức linh mục chỉ là một món trang sức cất ở đâu đó, khi cần mới đem ra sử dụng. Con người hoang dã vẫn còn đó, lấn át mọi sự của chúng ta. Chúng ta đã thụ phong, nhưng chúng chỉ “có chức” linh mục, chưa thực sự “là linh mục”.
3. GIẢI PHÓNG BẢN THÂN.
Xu hướng triết học có ưu thế nhất trong thời cận đại ở phương Tây, đó là hiện tượng luận. Hiện tượng luận cho rằng muốn tri thức chính xác về vạn vật, trước hết cần phải trả lại tự do cho tư duy, nghĩa là phải giải phóng tư duy khỏi mọi thứ ảnh hưởng chi phối nó, chẳng hạn như văn hoá, giáo dục, thành kiến, những cái người ta vẫn gọi là “nếp suy nghĩ”, có thể chi phối hoạt động của trí năng.
Chúng ta có thể lấy một ví dụ y học để minh hoạ. Ở Âu Châu, các bác sĩ thường yêu cầu bệnh nhân phải trút bỏ hết quần áo trước khi khám bệnh. Đối với người VN chúng ta thì rất ngượng nhưng đối với người Tây Phương, đó là chuyện bình thường. Nhưng xét cho cùng, điều đó hoàn toàn hợp lý, bởi vì có như vậy việc chẩn bệnh mới đạt độ chính xác cao.
Trong đời sống thiêng liêng của chúng ta cũng thế. Nhiều thứ bóng tối đang bao phủ cuộc đời chúng ta nhưng có thể vì đã quá quen thuộc như quần áo nên chúng ta không còn cảm thấy nhu cầu trút bỏ. Có những căn bệnh trầm kha đang gậm nhắm đục khoét đời linh mục của chúng ta một cách nào đó mà chúng ta không thấy được tác hại của nó. Tất cả những thứ đó giống như những lớp bụi che phủ không cho chúng ta thấy ánh sáng bên ngoài chiếu vào, khiến chúng ta không còn cảm thấy nhu cầu đổi mới, không cho phép chúng ta thấy sự thật phải vươn tới.
Thánh Phêrô đã cảnh giác giáo đoàn của ngài rằng “Anh em hãy tiết độ và tỉnh thức vì ma quỉ thù địch của anh em như sư tử gầm thét lượn quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự”. Điều đáng sợ nhất là chúng ta không cảnh giác mà ma quỉ vẫn thường xuyên rình mò và hoạt động liên lỉ. Chúng ta không hề hay biết âm mưu của chúng, không có cảm giác bị chúng xâm chiếm.
Lúc còn nhỏ, tôi rất sợ tấm ảnh chết lành chết dữ trong đó có thằng quỉ đen chùi chũi, có sừng, có đuôi nắm tấm ra giường của người chết dữ để kéo họ xuống hỏa ngục. Tôi cũng nghe các soeurs dạy giáo lý giải thích rằng sở dĩ ta ngủ gục trong nhà thờ là vì có thằng quỉ ngồi trên đầu dùng hai chân đạp xuống mi mắt. Phải nhìn nhận rằng những lối diễn tả như thế cũng có hiệu quả sư phạm là giúp sợ tội nhờ hình ảnh gớm ghiếc về ma quỉ. Nhưng lớn lên, tôi thấy ma quỉ không xấu xí như thế. Ngược lại, chúng đội lốt những nhân vật rất hấp dẫn, khôn khéo dụ dẫm ta lạc vào mê hồn trận của chúng một cách êm ái nhẹ nhàng. Và chính vì thế mà chúng trở thành nguy hiểm nếu chúng ta không đủ cảnh giác như Thánh Phêrô đã lưu ý.
Những tật xấu thâm căn cố đế, những thói quen bệnh hoạn, những mối quan hệ không trong sáng… nhiều khi được che dấu bởi những bức màn rất đẹp đẽ. Tĩnh tâm là dịp để chúng ta đưa ra ánh sáng tất cả sự thật ẩn dấu đàng sau những bức màn đó. Cần phải xem xét thật kỹ để phát hiện những gì thần dữ đang thực hiện cách khéo léo trong tâm hồn chúng ta.
Chúng ta thường có thói quen thực hiện những cuộc tĩnh tâm giống như một thủ tục, một bổn phận. Không làm thì thấy thiếu, nhưng trớ trêu là làm mãi suốt đời cũng không có gì đổi thay. Chả lẽ lần này, chúng ta lại tiếp tục thực hiện thêm một cuộc tĩnh tâm vô hồn như thế?
Kết luận
Tất cả những suy nghĩ trên đây nhắm một mục đích cụ thể: qua cuộc tĩnh tâm này chúng ta phải phát hiện được những bóng tối đang bao phủ đời linh mục chúng ta. “Cẩm nang cho thừa tác vụ và đời sống linh mục” số 53 khuyên rằng: “Như bất kỳ giáo dân tốt lành nào khác, linh mục cũng cần xưng thú tội lỗi mình và những yếu đuối của mình. Người là người đầu tiên biết rằng viẹc thực hành bí tích này cũng cố đức tin và đức mến Chúa yêu người”.
Chúc các cha có được một lần xưng tội thật như các cha vẫn dạy và vẫn mong muốn cho giáo dân làm.
------------------------------------------
BÀI III
LINH MỤC VÀ CHÚA GIÊSU
Đối với linh mục, mối quan hệ căn bản nhất chính là mối quan hệ với Chúa Giêsu. “Kim chỉ Nam thừa tác vụ và đời sống linh mục số 7 viết rằng, “Linh mục phải ý thức rằng dời sống của mình là một mầu nhiệm hoàn toàn đâm rễ nơi mầu nhiệm Đức Kitô”. Ơn gọi linh mục tự bản chất là một mối quan hệ, quan hệ với Chúa Giêsu, Đấng đã kêu gọi và tuyển chọn linh mục. Nói cách khác, chúng ta chỉ thực sự là linh mục khi chúng ta ở trong mối quan hệ với Chúa Giêsu.
Định nghĩa mối quan hệ đó không phải là chuyện khó vì có rất nhiều sách vở tài liệu bàn về đề tài này. Điều quan trọng đối với chúng ta không phải là định nghĩa quan hệ cho bằng thái độ quan hệ. Làm thế nào để sống mối quan hệ đó trở thành sống động, đó mới là vấn đề chúng ta phải bàn.
Bao nhiêu anh em linh mục đã ra đi, đã ngã xuống biết đâu chỉ vì mối quan hệ với CG không đủ nồng nàn và bền chặt trong đời linh mục của các ngài ? Cũng rất có thể đời linh mục của chúng ta không mấy an vui chỉ vì CG chưa có được vị trí ưu tiên.
Chúng ta hãy dành ra bài suy niệm này để xin CG giúp chúng ta canh tân được mối tương quan của chúng ta với Ngài, để nhờ đó chúng ta sống ơn gọi và sứ mệnh linh mục của chúng ta cách sâu xa hơn.
1. QUAN HỆ ÂN TÌNH.
Để ám chỉ sự kêu gọi của Chúa, tiếng Latin gọi là vocatio. Tiếng Pháp và tiếng Anh cũng dùng chữ vocation, chỉ có nghĩa đơn giản là “sự kêu gọi”. Nội hàm từ ngữ tương đương trong tiếng Việt xem ra phong phú hơn khi có thêm khái niệm “ơn” đi liền với sự kêu gọi. Quả vậy, sự kêu gọi của Chúa tự bản chất là một ơn nhưng không, bởi vì hoàn toàn do hảo tâm của Ngài.
Bản thân tôi đã cảm nghiệm điều đó cách khá rõ ràng khi chịu chức linh mục. Sau khi Giáo Hoàng Học viện giải thể năm 1977, tôi bị trả về gia đình làm ăn sinh sống. Hiện tại gian khổ, tương lai mù mịt. Thời gian chờ đợi chức linh mục là cả một cuộc phiêu lưu vô định vì không biết mình sẽ đi về đâu. Bề trên trong giai đoạn đó cũng bó tay. Nhưng may mắn là cuối cùng tôi cũng được chịu chức linh mục. Lúc đó ai cũng tấm tắc khen tôi kiên trì. Nhưng tôi không hề cảm thấy đó là kết quả sự kiên trì. Tôi ý thức rằng bản thân tôi không thể nào vượt qua một chặng đường chông gai như thế. Tất cả là do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Bao nhiêu anh em lỗi lạc kẻ trước người sau đã ra đi. Chỉ còn lại mình: kém cỏi, mong manh...Tại sao ? Nhờ đâu, nếu không phải là ơn phù trợ của Chúa ?
Nhưng đó không phải là huyền nhiệm ơn gọi của tiêng tôi. Tôi tin rằng hầu hết chúng ta đều cảm nghiệm như thế. Có nghĩa là, chúng ta còn lại đây, trong thiên chức linh mục, là do ơn của Chúa chứ không phải do tài năng hay công trạng của chúng ta. Tại sao Ngài đã chọn chúng ta mà không chọn người khác? Đó là một mầu nhiệm mà theo diễn tả của Chúa Giêsu, “ai có tai mời hiểu được”.
Dù sao, điều chắc chắn là thiên chức linh mục là một hồng ân đặc biệt Chúa chỉ dành riêng cho mỗi người chúng ta. Và đó chính là lý do đời linh mục của chúng ta phải là một đời tri ân. Trong kinh tiền tụng thứ bốn, có câu “lời ca tụng của chúng con không thêm gì cho Chúa”. Thật vậy, chúng ta tạ ơn Chúa không phải vì Chúa cần chúng ta. Chúng ta tạ ơn Người suốt đời vì ơn gọi là lý do khai sinh, lý do tồn tại và lẽ sống đời linh mục chúng ta.
Đức Maria trong kinh Magnificat, đã cho chúng ta một mẫu gương về lòng tri ân. Mẹ luôn cảm thấy tâm hồn chứa chan hạnh phúc vì lúc nào tâm hồn Mẹ cũng dạt dào niềm tri ân, lúc nào Mẹ cũng “hớn hở vui mừng” vì thấy Chúa luôn là vị ân nhân vĩ dại đã ban cho Mẹ và cho Dân Israel “Đấng cứu độ”. Cũng thế, đời linh mục của chúng ta chỉ thực sự bằng yên, hạnh phúc khi chúng ta ý thức mình là kẻ thụ ân, được CG tuyển chọn, yêu thương và đồng hành.
2. QUAN HỆ SỐNG ĐỘNG
Tin Mừng Mc 3, 13-19 kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ với một câu kết rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Ngài kêu gọi họ “để họ ở lại với Người”. Các nhà chú giải cho rằng Tin Mừng Maccô được chia làm hai cuộc hành trình rất rõ rệt: cuộc hành trình thứ nhất từ đoạn 1 đến đọan 8 là cuộc hành trình băng qua Galilê. Đây quả thật là mùa xuân của ơn gọi vì các môn đệ không làm gì hơn là ở bên cạnh Chúa Giêsu.
Điều rất đáng ngạc nhiên là cuộc hành trình thứ nhất này kết thúc bằng câu hỏi “các con bảo thầy là ai?” (Mc 8, 26), có nghĩa là Chúa Giêsu thăm dò sự hiểu biết của các môn đệ về chính Người. Nếu gọi Chúa Giêsu là sư phụ, chúng ta có thể nói được rằng chưa biết đủ về sư phụ, sư phụ sẽ không cho xuống núi. Lời tuyên xưng của Phêrô “Thầy là Đức Ktô” (8, 27) có thể được xem như Phêrô đã “thi đậu” trong cuộc phỏng vấn của Chúa Giêsu: Phêrô có thể xuống núi vì đã đạt trình độ hiểu biết về sư phụ Giêsu.
Cuộc hành trình qua Galilê vừa nhắc đến trên đây kết thúc với việc chữa người hành khất mù tên là Bartimê tại Giêricô. Được chữa lành, anh ta đã vất áo choàng lại, bước theo CG lên Giêrusalem. Dường như Marcô coi Bartimê như biểu tượng của những ai đã nhận thức được hoàn toàn ơn gọi của mình. Trước đó, anh chỉ làm được một việc duy nhất là ngồi bên vệ đường (10, 6). Sau khi nhận ra Chúa anh mới có thể bước theo Ngài (10, 52). Từ bài học về Bartimê, ta có thể kết luận rằng bất cứ ai không nhìn thấy, không nhận ra CG đều không thể đi theo Ngài và bất cứ ai không đi theo Ngài đều không nhận ra Ngài. Lòng tri ân sẽ nồng nàn hơn, cụ thể hơn nếu chúng ta nhận ra sự hiện diện sống động của vị đại ân nhân đã kêu gọi chúng ta.
Một cha bạn truyền giáo ở Kontum đã chia sẻ với tôi kinh nghiệm này: người dân tộc Tây nguyên có cảm thức về linh thánh rất cao. Họ tham dự cử hành phụng có khi đông hàng vạn mà vẫn im phăng phắc từ đầu đến cuối. Có lẽ vì trước khi gia nhập đạo, họ đã quen kính sợ thần rừng thần núi nên họ ý thức dễ dàng hơn về sự vĩ đại của Thiên Chúa.
Ngược lại, hiện nay ở phương Tây, người ta lại nói rất nhiều đến một căn bệnh đức tin, đó là căn bệnh mất cảm thức về linh thánh. Vì thế mà người ta rơi vào chủ nghĩa dửng dưng tôn giáo (indifférentisme religieux), cho rằng đã đến lúc nên loại trừ tôn giáo vì không cần thiết nữa.
Điều đáng báo động là có khi chính linh mục chúng ta cũng bị ảnh hưởng bởi căn bệnh thời đại đó. Tôi vẫn còn nhớ ngày xưa lúc tôi còn bé, một hôm có một vị linh mục, sau khi truyền phép bánh, đã rời cung thánh bước xuống lòng nhà thờ bạt tai một cụ già rồi trở lên truyền phép máu thánh. Lý do chỉ vì cụ già đó cầu nguyện quá to tiếng khi ngài đưa Mình Thánh Chúa lên cao cho giáo dân thờ lạy sau khi truyền phép.
Chính bản thân tôi cũng là nạn nhân những hành vi như thế. Chỉ vì có con kiến lẫn vào, cha xứ đã hắt cả bình rượu vào mặt tôi hôm đó giúp lễ.
Hy vọng rằng chỉ vì nóng tính không kềm chế được, nên các linh mục trong những câu chuyện trên đã có những hành vi như thế. Nhưng cũng rất có thể vì các ngài thiếu ý thức về sự hiện diện linh thiêng của Chúa trên bàn thờ. Nếu cảm nghiệm được sự hiện diện thiêng liêng cao trọng của Chúa chắc chắn các ngài không dám làm như thế.
Đôi khi cách cử hành cẩu thả, lôi thôi của linh mục chúng ta cũng khiến cho giáo dân ngờ vực, không biết các cha có đức tin không. Mới đây tôi nghe một giáo dân đạo đức than phiền rằng “Thưa Đức cha, con thấy cha X lúc mới chịu chức xem ra được lắm. Không hiểu sao bây giờ có vẻ như ngài bị lãnh cảm về thiêng liêng”. Tôi giật mình vì cách dùng từ của người giáo dân này, nhưng một cách nghịch lý, lại thấy chữ “lãnh cảm” thật chính xác. Có thể chúng ta đang bị lãnh cảm thiêng liêng như phát biểu của người giáo dân trên đây.
Vì thế bằng mọi giá, chúng ta phải củng cố lại sự hiện diện của CG trong đời chúng ta, một sự hiện diện phải đủ nồng độ để bảo đảm sự gắn bó của chúng ta với Ngài mọi nơi mọi lúc.
Khi muốn đặt Phêrô làm thủ lãnh nhóm 12, CG không thẩm vấn Phêrô về tay nghề. Chúa chỉ hỏi ông “anh có yêu mến ta không?”. Như vậy điều kiện của CG là tình yêu. Đó cũng là điều kiện Chúa đặt ra cho linh mục chúng ta. Con tim và cuộc đời linh mục phải đầy ắp Chúa Giêsu.
3. XUẤT PHÁT LẠI TỪ ĐỨC KITÔ.
Những ý tưởng trên đây cho chúng ta thấy rằng để đứng vững trong đời linh mục, chúng ta cần phải tạo lại chỗ đứng cho Chúa Giêsu, phải đặt Ngài vào vị trí hàng đầu trong đời sống linh mục. Hay nói theo ngôn từ của Đức Gioan Phaolô II, cần phải « xuất phát lại từ Đức Kitô ».
Một số nơi ở miền Bắc, người giáo dân vẫn còn giữ thói quen đi qua nhà thờ bỏ mũ cúi đầu. Chúa đối với họ Chúa vẫn còn rất gần gũi. Họ chào hỏi Ngài thường xuyên mỗi khi có dịp gặp, đi qua hoặc tưởng nhớ Ngài.
Chắc các cha cũng đã đọc câu chuyện cha Don Camillo. Qua cách phản ứng của nhân vật này, ta dễ có cảm tưởng ngài là người ngớ ngẩn. Nhưng đọc kỹ, chúng ta sẽ đó là một mẫu linh mục sống đức tin rất mạnh mẽ, cụ thể và triệt để: luôn luôn dành chỗ ưu tiên cho Chúa Giêsu trong mọi tình huống cuộc đời, chia xẻ vui buồn với Ngài và xin Ngài chỉ đạo tất cả mọi công việc.
Đó cũng là điều mà trong đời linh mục, chúng ta phải đạt được trong mối quan hệ đối với Chúa Giêsu. Thường chúng ta chỉ giới hạn mối quan hệ đó trong phạm vi cử hành phụng vụ. Nhưng đúng ra nó phải bao trùm cả cuộc sống của chúng ta.
Có lần, lúc tôi còn là một cha phó, có một giáo dân già gần trăm tuổi đã nói với tôi: “thưa cha, con nhớ các cha ngày xưa hay viếng Thánh Thể lắm nhưng sao bây giờ không thấy các cha làm như thế nữa ?” Tôi hơi bất bình tự nhủ: “đâu phải hễ viếng Chúa là phải trình cho cụ đâu”. Nhưng nghĩ lại, tôi cảm thấy xấu hổ vì nhận xét của cụ giáo dân phản ảnh đúng một phần sự thật về các linh mục thời đại.
Trong khoá tu nghiệp dành cho giám mục tân nhiệm cuối tháng 9-2007 tại Roma, có vị đã báo động rằng càng ngày càng thấy các linh muc ít xưng tội. Phải chăng đàng sau những tiêu cực đó, tương quan giữa Chúa Giêsu với linh mục đang trên đà suy thoái ?
Kết luận
Chúng ta hãy mượn lời thánh Phaolô để tự nhắc nhở mình: “Đã đến lúc phải canh tân niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô, Đấng vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi” (Dt 13, 8).
(còn tiếp…)
+ GM Giuse Nguyễn Chí Linh
+ GM Giuse Nguyễn Chí Linh - giaosivietnam