Bài vở góp nhặt về Linh Mục, Giám Mục
Tĩnh tâm Linh Mục Đoàn Đà Lạt: mối quan hệ giữa linh mục với các thành phần Dân Chúa khác
TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN ĐÀLẠT
“Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con” (Ga 17, 9)
TĨNH TÂM THƯỜNG NIÊN TOÀ GIÁM MỤC ĐÀ LẠT
16-22/02/2009
BÀI IV
LINH MỤC VÀ GIÁM MỤC
Chúng ta đã bàn về mối tương quan với Chúa Giêsu. Đó là một mối tương quan hàng dọc. Hôm nay chúng ta chuyển sang những mối tương quan hàng ngang, nghĩa là giữa con người với nhau, giữa linh mục và các thành phần Dân Chúa khác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng mối tương quan của linh mục đối với giám mục.
“Không có thừa tác vụ linh mục ở ngoài sự hiệp thông”. Đó là lời khẳng định của “Cẩm nang cho thừa tác vụ và đời sống linh mục” (số 21). Đã nói đến linh mục là phải nói đến hiệp thông. Bí tích truyền chức đặt linh mục trong mối quan hệ hữu thể đối với mọi thành phần Dân Chúa, từ Giáo Hoàng cho đến giáo dân. Nhưng chúng ta không có đủ thời gian để bàn tới tất cả mọi đối tượng của thế giới hiệp thông rộng lớn đó. Chúng ta chỉ có thể đề cập đến một vài đối tượng có tính cách chủ lực, trong đó không thể không nhắc đến mối quan hệ của linh mục đối với giám mục.
1. CHIỀU KÍCH GIÁO HỘI HỌC.
Trước hết chúng ta hãy trở về với cơ sở thần học của mối quan hệ giữa giám mục và linh mục.
Khi thụ phong, chúng ta được khai sinh trong chức linh mục, có nghĩa là chúng ta trở thành thành viên của một trật tự mới, trật tự mà Giáo Hội học gọi là Phẩm Trật. Trật tự đó trước hết là một cơ chế, nghĩa là một tổ chức nhân sự y như bao tổ chức trần thế khác.
Nhưng ngoài tính cơ chế, GH do Chúa thiết lập, theo ngôn từ của Thánh Phaolô, còn là một nhiệm thể trong đó, mọi bộ phận và chi thể chỉ hoạt động được trong thế liên kết với nhau và với một đầu não duy nhất. Không thể tách rời linh mục ra khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội và cách riêng là với giám mục. Mối quan hệ đó là điều kiện bất khả kháng mang tính sinh tồn, chứ không phải là nhiệm ý, muốn thì quan hệ không muốn thì thôi. Nếu diễn tả theo triết học của Gabriel Marcel, chúng ta có thể phát biểu rằng tự bản chất, linh mục “là”quan hệ với giám mục chứ không phải “có” quan hệ với giám mục.
Giám mục là người kế vị các tông đồ, và nhờ tính tông truyền đó, ngài trực tiếp nhận chức linh mục từ Chúa Giêsu. Linh mục là người chỉ thông dự vào chức linh mục viên mãn của giám mục nên linh mục chỉ là linh mục khi hiệp thông với giám mục. Sứ mệnh của linh mục thật ra là sứ mệnh của giám mục, dù giám mục có thế nào đi nữa.
Cũng vì vậy mà truyền thống thần học của Giáo Hội vẫn luôn coi giám mục là nguyên lý hợp nhất cộng đoàn. Trong mỗi thánh lễ, chúng ta đều cầu nguyện cho giám mục giáo phận. Người Việt Nam chúng ta thường cả nể, nhắc đến tất cả các giám mục đang sống trong giáo phận và cho cả các đức cha khách đang có mặt. Nhưng đúng theo phụng vụ, chúng ta chỉ cần nhắc đến một mình vị giám mục đang cai quản giáo phận là đủ. Không phải là xem thường các vị khác, nhưng khi chỉ nhắc đến một vị bản quyền, Giáo Hội muốn nói lên tính duy nhất của cộng đoàn Giáo hội qua một vị thủ lãnh duy nhất.
Qua một vài nét phác hoạ trên đây, chúng ta thấy rằng mối quan hệ giữa linh mục và giám mục là một mối quan hệ có nguồn gốc thần linh, chứ không phải hàng ngang mà thôi.
2. KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY
Đáng buồn là những giá trị đó hiện nay đang bị đe doạ. Do ảnh hưởng của não trạng dân chủ, nhân loại khắp nơi đang trải qua một cuộc khủng hoảng về quyền bính. Khủng hoảng đó lây nhiễm cả vào Giáo Hội. Người ta không chấp nhận quyền bính cách dễ dàng như xưa nữa. Thậm chí có khi người ta nhạo báng chức sắc của Giáo hội một cách trắng trợn sống sượng. Kể cả Đức giáo hoàng người ta cũng không tha.
Không phải ở phương Tây mà thôi. VN của chúng ta cũng đang đi dần vào khủng hoảng. Tôi có một cha thầy cũ thuộc hội thừa sai Paris được chỉ định đi truyền giáo tại Nhatrang. Ngài kể chuyện rằng sau khi chịu chức linh mục, Đức Cha Marcel Piquet Lợi lúc đó là giám mục Nha trang đã ra lệnh cho ngài học văn chương cổ ngữ ở đại học Sorbonne để sang Việt Nam dạy chủng viện. Ngài thưa với Đức Cha: “xin Đức cha cho con qua Nha-trang ngay chứ bây giờ con hơi lớn rồi nên ngại học quá”. Thế là đức cha Piquet đùng đùng nổi giận cảnh cáo rằng: “Ở Việt Nam linh mục vâng lời giám mục chứ không phải nói gì cũng cãi như bên Pháp. Hoặc cha đi học hoặc tôi không nhận cha vào Nha trang nữa”.
Như vậy trong tâm khảm của Đức cha Piquet, ở VN chưa có khủng hoảng. Điều đó có lẽ nay không còn nữa. Chức giám mục tại Việt Nam cũng đang càng lúc càng bị xem thường, nhất là từ khi có mạng lưới internet. Thông tin nhanh là một kỳ diệu của nền văn minh tin học nhưng cũng là con dao hai lưỡi, có khi gây ra thảm kịch, tai vạ. Người chống đối Giáo Hội tha hồ báng bổ, người bất mãn bôi bác lãnh đạo, người tiểu nhân trả thù cách đê tiện, người nông cạn loan tin thất thiệt....Rốt cuộc uy tín của giới lãnh đạo Giáo Hội bị thương tổn, sứt mẻ.
Sau biến cố tháng 04-1975, do tình hình xã hội phức tạp nên Toà thánh thường chọn người trong địa phận làm Giám mục. Giải pháp này vừa tích cực vừa tiêu cực. Tích cực vì vị giám mục nắm vững hiện trường công tác hơn, nhưng tiêu cực vì việc lựa chọn ứng viên không còn giữ được tính độc lập nữa. Nó bị bao nhiêu là yếu tố nhân loại xen vào, tạo ra thảm kịch vạch áo cho người xem lưng và có khi lật đổ nhau cách trắng trợn. Giám mục chỉ còn là thắng lợi hay thất bại của một thế lực hoặc một phe nhóm nào đó.
Do vô tình, chúng ta sa vào nhiều thứ bẫy, bẫy của đối phương, bẫy của kẻ ham danh háo lợi. Cuối cùng chức giám mục và linh mục chẳng còn gì là thiêng thánh nữa. Linh mục không thấy nơi giám mục người Chúa chọn, không thấy đấng kế vị tông đồ nữa, không thấy mình là người phải vâng lời giám mục. Nếu phải vâng lời thì đó chỉ là thế bắt buộc. Hậu quả là hiện tượng nói xấu, kiện cáo giám mục càng ngày càng phổ biến.
3. GIÁM MỤC LÀ AI ĐỐI VỚI TÔI?
Làm thế nào để phục hồi mối quan hệ đúng đắn đối với GM? Tông huấn Pastores dabo vobis nhắc nhở rằng, điều quan trọng không phải là mối quan hệ nhưng là thái độ quan hệ. Muốn quan hệ tốt, chúng ta phải có những ý nghĩ tích cực về GM.
Trước hết, linh mục cần phải tin vào tình thương GM dành cho linh mục. Mỗi lần nhìn các cha xứ từ vùng sâu vùng xa về thành phố, đèo bồng đủ thứ trên một chiếc xe hai bánh, tôi cảm thấy thật bùi ngùi, nghĩ rằng linh mục của mình vất vả lo cho con chiên. Mỗi lần đi qua La vang, dù có vội đến mấy, tôi cũng tìm cách ghé vào thăm Đức Mẹ, gửi gắm địa phận cho Đức Mẹ, nhất là để cầu nguyện cho các linh mục giáo phận được trung thành với ơn gọi. Tôi đặc biệt nhớ đến những linh mục đang gặp khó khăn để xin Đức Mẹ đỡ đần cứu giúp. Mỗi lần xuất ngoại, tôi luôn bận tâm tìm một món quà nào đó để mua cho các cha. Không riêng gì tôi, hầu hết các đức cha đều làm như thế.
Không phải bỗng dưng có thể dành cho linh mục một niềm thương đặc biệt như thế. Phải chăng đó là “ơn bổn phận” (grâce d’état) Chúa ban cho giám mục ? Nếu LM có thể thương yêu cộng tác viên thân cận của mình cách dễ dàng thì GM cũng thế. Còn ai thân cận với giám mục bằng linh mục? Cách thể hiện có thể vụng về nhưng điều chắc chắn là giám mục yêu thương linh mục. Linh mục cần phải tin vào điều đó. Bởi vì có như thế, linh mục mới cảm thấy dễ chịu trong mối quan hệ với ngài và nhờ đó, thông cảm dễ dàng hơn với những bất toàn của ngài, tạo điều kiện thuận lợi hơn để ngài kiện toàn bản thân ngài. “Kinh nghiệm cho thấy giám mục càng lo huấn luyện bản thân mình bao nhiêu, thì càng biết khuyến khích và nâng đỡ việc huấn luyện linh mục đoàn của mình bấy nhiêu” (“Kim chỉ nam linh mục” số 89).
Linh mục cũng như giáo dân VN thường có xu hướng thần thánh hoá GM nên dễ rơi vào khuyết điểm đòi hỏi GM quá sức ngài. Chúng ta muốn giám mục phải là người xuất chúng vạn năng, giải quyết tất cả mọi vấn đề cách hoàn hảo, vừa ý chúng ta mà quên rằng giám mục phải chọn một trong muôn vàn phương án thường là khác với phương án và kế hoạch của chúng ta. Người nào cũng cho phương án mình là tối ưu nhưng trong tư cách lãnh đạo, GM chỉ được quyền chọn một phương án mà thôi. Bất mãn vì GM không làm theo ý mình đó là điều quá đáng.
Đã là giám mục, ai cũng đều muốn vừa lòng càng nhiều người càng tốt. Điều đó thường là bất tòng tâm. Nếu trong xứ đạo đôi khi linh mục chúng ta thấy lúng túng không biết phải quyết định thế nào trong một số công việc thì giám mục đối với linh mục cũng vậy. Đôi khi thoạt nghe thoạt thấy cách làm của giám mục, chúng ta vội phê phán mà quên đi rằng đó là hồ sơ ngài phải xử lý nên ngài nắm vững cặn kẽ, phải xem xét kỹ lưỡng và toàn diện hơn chúng ta, đang khi chúng ta chỉ thấy một góc độ thường là nông cạn và phiếm diện.
Kết luận
Chỉ cần đặt ra câu hỏi nếu là giám mục, liệu tôi có hơn giám mục của tôi không, chúng ta sẽ thấy ngay câu trả lời: chắc chắn là có những điều chính tôi không làm được nếu tôi là giám mục.
Thật ra vấn đề không phải là làm được hay không làm được cho bằng mối quan hệ của linh mục với giám mục có tốt đẹp không.
Chúng ta hãy xác tín rằng giáo phận lý tưởng là giáo phận trong đó linh mục và giám mục yêu thương nhau tận tình theo tinh thần của Chúa Giêsu đấng sáng lập Giáo Hội.
------------------------------------------
BÀI V
HIỆP THÔNG LINH MỤC
Sau mối tương quan với giám mục, mối tương quan ưu tiên thứ hai là mối tương quan giữa linh mục với nhau. Có thể nói được rằng hai mối tương quan này là thước đo sức khỏe của một giáo phận. Các linh mục hiệp thông chặt chẽ với nhau chung quanh giám mục, đó là một bảo đảm vững chắc cho sự hưng thịnh của giáo phận.
Tông Huấn “Pastores dabo vobis” số 17 đã diễn tả tình hiệp thông linh mục giống như tình anh em một nhà: “ Khi được sát nhập vào hàng linh mục, linh mục làm thành một đơn vị có thể định nghĩa như một gia đình thật sự”. Là thành viên của linh mục đoàn hay của cộng đoàn dòng tu, có nghĩa là linh mục có thêm một gia đình mới. Yêu sự nghiệp Chúa, yêu Giáo Hội, yêu giáo phận, linh mục phải luôn sống keo sơn găn bó với nhau. Đó là ơn chúng ta xin trong giờ suy niệm sáng nay. Ước gì tuần tĩnh tâm này là dịp để chúng ta quyết tâm thanh toán tất cả những gì làm suy yếu tình hiệp thông linh mục đoàn giáo phận Đàlạt.
Con xin tiếp cận đề tài hiệp thông linh mục dưới ba tiêu điểm. Tiêu điểm thứ nhất: tầm quan trọng của hiệp thông linh mục; tiêu điểm thứ hai: những biểu hiện phản hiệp thông; tiêu điểm thứ ba: chuyển xứ, tình huống thử thách tình hiệp thông.
1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA HIỆP THÔNG LINH MỤC
Thật ra, hiểu theo nghĩa sự liên đới giữa con người với nhau, tình hiệp thông không phải là một giá trị biệt loại của Kitô giáo. Tất cả mọi nền văn hóa đều đề cao tình hiệp thông liên đới. Nhưng thực tế cho chúng ta thấy rằng tình liên đới, tình hữu nghị, tình đoàn kết xã hội hoặc chính trị thường rất mong manh vì thường được xây dựng trên tương quan sức mạnh và tư lợi. Đó là điểm khác biệt giữa tình liên đới chính trị xã hội với tình liên đới Giáo hội. Đó cũng là lý do tại sao tình liên đới trong Giáo Hội mang tên là tình hiệp thông.
GH hữu hình cần đến một cơ chế chặt chẽ, nghĩa là cũng cần đến tình liên đới để hoạt động hữu hiệu. Nhưng tình hiệp thông không phải chỉ là nhu cầu của cơ chế. Ý nghĩa căn bản của tình hiệp thông hệ tại ở chỗ nó được xây dựng trên lệnh truyền, trên lời trăn trối sau cùng của Chúa Giêsu. Khi làm di chúc, người ta thường nghĩ đến việc phân chia tài sản vật chất cho người thân. Nhưng Chúa Giêsu không hề nhắc đến gia đình huyết tộc. Chủ thể thừa kế của Ngài chỉ là linh tộc của Ngài, những đứa con tinh thần, những ai Ngài đã chọn để kế tục sự nghiệp cứu thế của Ngài.
Nội dung di chúc của ngài không phải là của cải thế gian. Đối tượng chính trong bản di chúc của Ngài là tình hiệp thông: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu”. Đó cũng là lời kêu cứu tha thiết nhất Ngài dâng lên Chúa Cha. “Xin cho họ nên một như Cha Con ta là một”. Không phải chỉ là một lời khuyên, một câu nói suông. Di chúc đó đã đi kèm với hành động: Đêm hôm đó ngài đã quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đã gọi môn đệ là bạn hữu, nghĩa là nâng họ lên tầm quan hệ đồng đẳng và đã khẳng định đó là tột đỉnh của tình yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng cho bạn hữu”.
Hiệp thông là ước nguyện sau cùng của Chúa Giêsu và từ đó, là nguyện ước của mọi thành phần dân Chúa. Giáo dân rất muốn thấy các linh mục yêu thương nhau. Càng thấy các cha quảng đại với nhau họ càng quý, càng hài lòng. Họ cũng rất vui khi các cha hiện diện bên cạnh nhau. Không hiệp thông với nhau chúng ta phụ lòng giáo dân biết bao ?
Không chỉ giáo dân mà thôi. Người bên lương và thậm chí cán bộ nhà nước cũng cảm nhận được nét đẹp đó. Sau lễ truyền chức linh mục của tôi, có một cha hỏi ông trưởng ban tôn giáo xem ông có cảm tưởng thế nào khi tham dự, ông trả lời rằng ông thích nhất là cử chỉ ôm hôn nhau của các linh mục.
Có một bản thăm dò đã khá lâu cho thấy rằng đoạn Thánh Kinh được linh mục ưa thích nhất đó là lời nguyện hiến tế của Giêsu trong Phúc Am Gioan. Không có gì đáng ngạc nhiên bởi vì qua hình tượng của các tông đồ, các linh mục cảm thấy mình được Chúa Giêsu quan tâm cách đặc biệt, nhất là qua đó Chúa Giêsu phản chiếu được sự hiệp thông mà ai trong chúng ta cũng đều mơ ước. Thánh Phaolô kể lại rằng chính vào giờ phút bị phản bội, “trong đêm bị trao nộp, Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra trao cho cho các môn đệ mà nói: tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn”. Diễn tả một cách mộc mạc, ta có thể nói rằng lúc bị chơi xấu nhất là lúc chúa đã chơi đẹp nhất. Nghiền nát cuộc đời thành tấm bánh nuôi tình hiệp thông, ngay cả khi bị phản bội. Đó là bài học mà bằng mọi giá linh mục phải thực thi trong đời mình. Đối tượng hàng đầu chính là anh em linh mục của mình.
2. KỲ THỊ: KẺ THÙ CỦA HIỆP THÔNG
Nói đến hiệp thông là nói đến phản hiệp thông. Thủ phạm số một phá hủy hiệp thông là kỳ thị. Kỳ thị có nghĩa là không chấp nhận, là tẩy chay sự khác biệt. Thật ra Chúa sinh ra chúng ta không ai giống ai. Chúng ta rất khác nhau về gốc gác, khả năng, hoàn cảnh….v.v… Vấn đề là con người có thái độ nào đối với những khác biệt đó. Ở các nước tiên tiến phương Tây, người ta xem sự khác biệt là yếu tố làm cho xã hội con người được phong phú. Nguyên tắc của họ là “năng lực trên hết”, bất luận anh thuộc mầu da tầng lớp nào. Nguyên tắc đó giúp vượt qua được sự khác biệt, tính ích kỷ hẹp hòi, tận dụng được chất xám của mọi thành phần ưu tú và nhờ đó đạt được sự tiến bộ tối đa.
Ngược lại trong nhiều nước hậu tiến người ta lại xem sự khác biệt là một mối đe dọa. Và có lẽ vì vậy mà họ trở thành hậu tiến. Vì phe nó phái kia khác mình nên đe dọa sự tồn tại của mình nên cần phải loại trừ họ để độc chiếm quyền lợi. Xem ra người Việt Nam cũng lâm vào cách suy nghĩ hẹp hòi này. Xã hội VN đầy dẫy những hình thức phân biệt bạnt thù, lý lịch, công trạng, đặc quyền, ưu tiên...
Trong giới công giáo chúng ta cũng chẳng khá hơn. Đủ mọi thứ kỳ thị đang gặm nhắm và làm suy yếu Giáo Hội. Hình thức kỳ thị thường gặp nhất là tinh thần cục bộ địa phương. Có một thầy chịu chức linh mục khi tuổi đã cao. Có người hỏi tại sao muộn màng thế. Thầy ấy trả lời rằng: “tôi gốc địa phận X, nhưng ở ngay trong biệt khu địa phận Y nên chẳng ai đệ bạt. Vì thế mà chịu chức muộn màng”.
Những biệt khu như vậy nhan nhản khắp nơi trong giáo hội VN. Điều đáng buồn là linh mục thường kỳ thị hơn giáo dân. Tình trạng đau lòng đó đòi chúng ta phải can đảm mổ xẻ.
Xét cho cùng kỳ thị là một điều không có cơ sở tồn tại. Đa số các cháu Việt nam sinh ra và lớn lên ở hải ngoại thích là công dân nước tiên tiến hơn là công dân Việt nam. Điều đó có nghĩa là khái niệm “địa phương” hay “đồng hương” là những khái niệm rất tương đối. Chỗ nào con người hạnh phúc, chỗ đó là quê hương. Thật là vô lý nếu ranh giới địa dư trở thành nguyên nhân chia cách lòng người. Trên thế giới người ta đang có xu hướng xoá đi ranh giới quốc gia để tiến tới một căn cước mang tính rộng lớn hơn ở cấp lục địa. Cộng đồng kinh tế Au châu, Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, cộng đồng các nước Đông Nam á là những ví dụ điển hình. Cùng là người VN, cùng thuộc về một Giáo Hội, lẽ nào chúng ta lại “phân biệt chủng tộc” chỉ vì chúng ta sinh ra ở những tỉnh và địa phương khác nhau? Lần nào ở Pháp có biểu tình phản đối dân nhập cư, người ta cũng thấy biểu ngữ “tất cả chúng ta đều là nhập cư”.
Kỳ thị về trình độ cũng phi lý như thế. Mọi người chúng ta vào đời đều trần truồng như ông Gióp. Giỏi hay dở, giầu hay nghèo đâu phải tự chúng ta tạo ra. Tất cả vốn liếng chúng ta có được đều là do Chúa ban. Vậy chúng ta dựa vào đâu để khinh miệt người thua kém chúng ta?
Kỳ thị thế hệ, già than phiền trẻ, trẻ than phiền già cũng là kẻ thù của tình liên đới linh mục. Tất cả chúng ta rồi cũng sẽ già. Nếu chúng ta không tập quen với những suy nghĩ hài hoà thế hệ, chúng ta cũng sẽ làm phân tán sức mạnh của linh mục đoàn.
Tắt một lời, tất cả mọi thứ kỳ thị đều không có lý do tồn tại và tự nó là phản Tin Mừng. Ở sâu xa vấn đề những người có chủ trương kỳ thị là những người muốn độc chiếm một cái gì đó. Kỳ thị chỉ là cái cớ để loại trừ người này người nọ vì sợ họ chiếm mất chỗ mình muốn hoặc đe dọa nguồn lợi mình toan tính.
3. CHUYỂN XỨ VÀ HIỆP THÔNG LINH MỤC
Chỉ nói về những tiêu cực mà thôi là thiếu công bằng. Tôi đã thấy một cha nọ, gia đình đã đi Mỹ trọn gói, chỉ một mình ngài ở lại VN. Tiền bạc ngài rất dồi dào vì được cả dòng họ ở hải ngoại yểm trợ. Nhưng ngài đã dùng tất cả những nguồn tài trợ đó vào việc xây dựng giáo xứ do ngài coi sóc. Ngày được lệnh đổi xứ, ngài chỉ mang theo vừa đúng một chiếc cartable. Cha kế nhiệm ngài xúc động quá, đã gom một số đồ đạc ngài để lại chở về xứ mới cho ngài. Ngài từ chối và yêu cầu cha kế nhiệm đưa về cho nhà chung.
Những mẫu gương thoát tục như vậy không phải là hiếm. Chúng ta có quyền kiêu hãnh và chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã dùng sức mạnh Thánh Thần để cấu tạo những linh mục đáng khâm phục như thế. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng đã xảy ra những chuyện đau lòng tiêu cực khi linh mục chuyển xứ.
Trước hết có thể vì chúng ta quá gắn bó với của cải thế gian nên vô tình chúng ta trọng của hơn trọng người. Lúc còn làm thầy, tôi đã chứng kiến trường hợp một cha sau khi về xứ mới, đã trở lại xứ cũ lấy cái xích chó và cả cái bát nhôm móp méo cho chó ăn. Ngài nói nửa đùa nửa thật rằng con chó nó bị ghẻ nên ngài để lại nhưng cái xích thì ngài bảo ngài cần để xích con chó mới. Cha xứ mới cười méo mó đành phát biểu rằng vâng cha cần gì cha cứ việc lấy. Không cố ý nhưng vô tình cha xứ cũ đã xem trọng cái xích chó mà quên cả tế nhị với người anh em linh mục. Vì đặt nặng vấn đề tiền bạc nên nhiều khi cha không màng gì cha đến sau mình.
Một hình thức lỗi hiệp thông nữa cũng thường gặp là các cha hay chứng tỏ “trước và sau mình chẳng ai bằng mình”. Vì nghĩ như vậy nên xảy ra cảnh các cha đi bêu riếu nói xấu nhau, cha cũ cứ về xứ cũ để nghe ngóng và chê bai cha xứ mới; cha xứ mới tìm cách khai tử những gì cha cũ làm.
Hãy nêu cao tinh thần hiệp thông mỗi lần đổi xứ. Phải quan niệm đổi xứ là dịp làm lại cuộc đời, chia xẻ gia sản giáo phận với anh em linh mục, chia xẻ tài năng với anh chị em giáo dân, nhất là để trắc nghiệm tinh thần thoát tục, lòng can đảm của linh mục.
Ở Au châu, vì thiếu linh mục giáo quyền không có giải pháp nào khác hơn là gom nhiều xứ lại và đặt dưới sự điều hành của một cộng đoàn linh mục lo cho cả vùng. Người ta khám phá ra tằng linh mục triều không thể ở được với nhau.
Kết luận.
Giáo Hội VN được khai sinh từ một sự hợp tác quốc tế. Đọc lại lịch sử chúng ta thấy các nhà thừa sai thuộc nhiều quốc tịch và hội dòng khác nhau làm việc bên cạnh nhau một cách hài hòa. Chúng ta phải sống tình hiệp thông linh mục thế nào để xứng đáng với di sản đó ?
(còn tiếp…)
+ GM Giuse Nguyễn Chí Linh
+ GM Giuse Nguyễn Chí Linh - giaosivietnam