Bài vở góp nhặt về Linh Mục, Giám Mục
Tĩnh tâm Linh Mục Đoàn Đà Lạt: mối quan hệ giữa linh mục với các thành phần Dân Chúa khác
TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN ĐÀLẠT
“Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con” (Ga 17, 9)
TĨNH TÂM THƯỜNG NIÊN TOÀ GIÁM MỤC ĐÀ LẠT
16-22/02/2009
BÀI VI
LINH MỤC VÀ GIÁO DÂN
Sau cuộc tĩnh tâm, chúng ta lại trở về với đời thường của chúng ta. Đối với đa số các cha, trở về đời thường có nghĩa là trở về với giáo dân. Có thể nói được rằng giáo dân chính là cuộc đời, là bổn phận, là gia đình thiết thân nhất của linh mục. Xét cho cùng thì chúng ta làm linh mục là vì giáo dân, cho giáo dân và với giáo dân. Vì thế, thành hay bại đời linh mục phần lớn tùy thuộc cách ứng xử của linh mục đối với giáo dân.
Pastores dabo vobis số 22-23 đã diễn tả sứ mệnh của linh mục với giáo dân như sau: “Là mục tử của cộng đoàn, linh mục sống và hiện hữu vì nó; vì nó mà cầu nguyện, học hỏi, làm việc và hy sinh. Và chính vì cộng đoàn mà ngài sẵn sàng thí mạng, yêu mến nó như Đức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô càng ngày càng xinh đẹp hơn, xứng đáng được Chúa Cha quí chuộng và Chúa Thánh Thần yêu thương. Chiều kích hôn ước này của đời sống linh mục-Mục Tử buộc linh mục hướng dẫn cộng đoàn bằng sự phục vụ hết mình toàn thể cộng đoàn và từng thành viên”.
Trích đoạn trên đây là một định nghĩa tuyệt vời về mối quan hệ của linh mục đối với giáo dân. Dựa vào chuẩn mực được đề ra, chúng ta hãy duyệt lại thái độ của chúng ta đối với giáo dân để nhận ra ưu khuyết điểm, với hy vọng trở về sau cuộc tĩnh tâm này, chúng ta tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong việc phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Trong giờ suy niệm này, chúng ta hãy xin Chúa tạo cho chúng ta biết yêu thương con chiên với một quả tim của người mục tử nhân lành.
Chúng ta hãy dựa vào gợi ý của trích đoạn Pastores Dabo vobis trên đây để tiếp cận đề tài dưới ba tiêu đề: 1/ cách đối xử của LM đối với giáo dân; 2/ Cách cử hành của linh mục và 3/ Chuẩn mực quan hệ với giáo dân.
1. SỐNG VÌ CỘNG ĐOÀN
Hiện hữu vì đoàn chiên có nghĩa là linh mục phải cống hiến đời mình cho đoàn chiên. Chức linh mục của chúng ta được gọi là chức linh mục thừa tác. Điều đó có nghĩa là, theo thứ tự thời gian, cộng đồng tín hữu có trước linh mục. Có Dân Chúa rồi mới đặt thừa tác viên để phục vụ. Có giáo xứ rồi Giám mục mới sai người làm quản xứ về. Trong thực tế, linh mục chúng ta thường hành động ngược lại. Chúng ta xử với giáo dân như chúng ta là những người sinh ra họ.
Một trong những điều Việt Kiều hay than phiền nhất là linh mục Việt nam quá quan liêu. Không thể vơ đũa cả nắm rằng linh mục nào cũng quan liêu. Cũng không thể lấy lối sống của linh mục Tây Phương làm mẫu mực cho linh mục Việt Nam được. Nhưng ngược lại cũng không thể phủ nhận rằng nhiều linh mục Việt nam có lối đối xử quan liêu, nghĩa là như một vị quan, coi giáo dân như thần dân của nhà độc tài.
Không những với con chiên, nhiều linh mục còn có thái độ hống hách với cả người bên lương. Một số người có chuyện cần gặp linh mục nhưng chỉ để cho xong việc, rồi không bao giờ trở lại vì quá ngao ngán thái độ độc đoán, khiếm nhã của linh mục. Hệ lụy thật nghiêm trọng: có khi hộ cấm luôn người nhà có đạo không được đến nhà thờ nữa. Giáo dân thì không đến nỗi nào vì họ chịu mãi cũng quen, nhưng người bên lương mất hết thiện cảm và không bao giờ nghĩ đến chuyện theo đạo nữa. Hoá ra, thay vì truyền đạo, linh mục lại làm mất đạo.
Tài chánh cũng là một trong những lý do khiến linh mục làm cho giáo dân buồn phiền. Tại một số giáo xứ, mỗi lần có đại lễ, giáo dân lại ngao ngán vì thảm cảnh cha bổ nhân danh. Đa số giáo dân Việt nam còn rất nghèo. Nông dân đồng bằng sông Hồng Bắc Việt mỗi ngày bình quân không kiếm nổi một ngàn đồng. Họ khổ từ chỗ ăn chỗ ở cho đến chỗ đi cầu. Nhưng họ rất thương linh mục, sẵn sàng nhường hết những ngọt bùi ưu đãi cho chúng ta. Thế mà nhiều khi lối cư xử của linh mục đối với họ lại quá vô tình. Biết đâu, tuy không cố ý, nhưng chúng ta làm “nghề” linh mục nhiều hơn là mục tử đối với con chiên ?
2. “VÌ CỘNG ĐOÀN MÀ CẦU NGUYỆN”.
Ngoài lối cư xử đời thường, linh mục còn phải thể hiện vai trò mục tử khi cử hành phụng vụ, hay nói theo lời trích Pastores dabo vobis trên đây, linh mục phải “vì đoàn chiên mà cầu nguyện”. Trong Tông Thư Dies Domini về Ngày chủ Nhật ở số 1, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời thánh vịnh 118 câu 24: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” thật rất xứng hợp với Thánh lễ chủ nhật”. Có nghĩa là phải biến ngày chủ nhật thành một ngày vui cho giáo dân.
Mỗi tuần giáo dân đi lễ có một lần, có khi từ rất xa. Thế mà nhiều khi chỉ gặp được “bộ mặt hình sự” của linh mục. Giáo dân giống như những chiếc bình tích điện: gặp được linh mục, họ như được dịp “xạc” lại bình để có nhiên liệu tiếp tục con đường.
Ngày chủ nhật phải là ngày linh mục tặng quà tinh thần cho giáo dân: một nụ cười, một ánh mắt yêu thương, một lời nói khích lệ là những món quà đơn sơ nhưng rất ý nghĩa của linh mục tặng cho giáo dân. Hãy làm một cái gì đó, hãy chuẩn bị một cái gì đó cho giáo dân mỗi lần chúng ta tiếp xúc với họ. Đức cha Hòa rất kiên trì với việc chụp hình với giáo dân. Có thể nói đó là một nhân đức. Có lần tôi hỏi làm sao đức cha có thể kiên trì ngồi chụp hình với hàng trăm người như thế. Ngài trả lời rằng không đích thân đến thăm học tại gia đình được thì chụp hình là cách để hiện diện bên cạnh họ.
Nhiều linh mục chẳng những không có một cử chỉ yêu thương nào cho giáo dân mà còn làm cho ngày chủ nhật của họ mất vui. Có cha cau có gắt gỏng từ đầu lễ đến cuối lễ, có khi gạt cả micro và sách lễ xuống đất, biến bàn thờ thành nơi nạt nộ khủng bố giáo dân làm cho ngày chủ nhật của họ trở thành căng thẳng nặng nề. Bài giảng lễ thì lòng thòng và chủ yếu là mắng mỏ, hăm doạ, khiển trách, thậm chí bôi bác giáo dân giữa nhà thờ. Bài giảng không dọn nói mãi không kết được khiến cha giống như máy bay không tìm được phi trường. Người nói thường không cảm thấy dài nhưng đối với người nghe là cả một sự chịu đựng. Nhất là nếu chúng ta không có lợi khẩu, chúng ta làm khổ giáo dân, biến họ thành nạn nhân hơn là nâng tâm hồn họ lên.
Diễn đàn Lời Chúa là diễn đàn tình thương nhưng rất nhiều cha lợi dụng để trút hết căm hờn lên đầu giáo dân. Không gì mâu thuẫn bằng linh mục lại là thủ phạm gây chia rẽ trong giáo xứ bằng chính lời nói của chủ chăn. Chúng ta tìm cách trừng trị triệt hạ những người đối lập. Không làm được thì chúng ta đem ra giữa nhà thờ đê bêu diếu bôi bác.
Khi thấy giáo dân đi lễ không chịu vào nhà thờ, chúng ta bực bội vì nghĩ rằng họ vô kỷ luật nhưng biết đâu ở sâu xa vấn đề, họ chán linh mục quá nên không muốn đến gần. Có một cha đuổi thanh niên vô nhà thờ. Có đứa nói nó tin Chúa nhưng không vô nhà thờ vì không thích cha.
Phải làm thế nào để mỗi lần nghĩ đến linh mục ngày chủ nhật hay lúc dâng thánh lễ, người giáo dân cảm thấy hứng thú vì nhớ lại thái độ tình nghĩa vui vẻ của linh mục, nhất là làm cho họ cảm thấy lời giảng của linh mục thực sự đem lại cho họ một sức sống mới.
3. MỤC TỬ NHƯ LÒNG CHÚA MONG ƯỚC.
“Yêu mến nó như Đức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô”. Tôi nghĩ rằng đây là bí quyết để linh mục huấn luyện con tim mục tử của mình có được sự nhạy cảm của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn đám đông không người chăn dắt mà chạnh lòng thương. Phải đạt cho tới trình độ hễ nhìn thấy dân là thương. Theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, đám đông luôn là một đàn chiên bơ vơ. Họ cần đến mục tử chăn dắt họ, họ cần đến linh mục. Nếu không tạo được một con tim mục tử, tự khắc chúng ta sẽ biến mình thành một tên Pharisiêu đã bị Chúa Giêsu lên án là chất lên vai người khác những gánh nặng mà chính mình không vác được.
“Ta đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào”. Đó là điều Chúa Giêsu đã thể hiện trong cuộc sống tại thế của ngài. Đó cũng là điều bằng mọi giá chúng ta phải đạt được trong đời linh mục của chúng ta. Sự có mặt của vị linh mục trong đời giáo dân có khi đã đục khoét những lỗ hổng quá lớn. Cần phải làm thế nào để sự có mặt của linh mục trong đời giáo dân là một cái gì tích cực: làm cho họ được sống và được sống dồi dào hơn.
Có thể nói không quá đáng rằng phải thương giáo dân mới là cha xứ. Không thương dân không phải là linh mục, không phải là cha xứ. Người giáo dân sẵn sàng châm chước cho linh mục ngay cả khi các ngài mắc phải những lỗi lầm nghiêm trọng, miễn là họ thấy linh mục yêu thương họ.
Kết luận
Yêu thương giáo dân phải là một phản xạ tự động của linh mục. Đó là cách hiệu quả nhất để chúng ta thể hiện tinh thần của Chúa Giêsu cứu thế.
----------------------------------------------
BÀI VII
LM VÀ HẠNH PHÚC
Như một lời cầu chúc sau cùng trước khi chia tay, tôi muốn kết thúc những chia xẻ của tôi trong mấy ngày qua bằng một tâm tình lạc quan: mong cho các cha tìm thấy hạnh phúc trong đời linh mục.
Có một bản tình ca ngoại quốc đã được dịch ra Việt Ngữ. Tôi không nhớ tựa đề bài hát nhưng nhớ một câu này: « Đời không có em đời chẳng còn chi để gọi là đời ». Chắc các cha thấy buồn cười vì câu hát nặng mùi cải lương. Nhưng tôi muốn mượn câu hát đó để minh hoạ một điều tương tự: đời linh mục không có hạnh phúc thì chẳng còn chi để gọi là đời linh mục nữa. Nhất là khi với tư cách là linh mục, chúng ta là những người rao giảng tám mối phúc thật. Là linh mục, chúng ta phải là chứng nhân của hạnh phúc, của niềm vui Phục Sinh. Không thể thể hiện điều đó, nếu chính linh mục không tìm thấy hạnh phúc trong đời mình.
Nhưng hạnh phúc là một khái niệm rất tương đối. Tùy theo quan điểm, người ta định nghĩa hạnh phúc rất khác nhau. Vậy khi nói linh mục phải hạnh phúc, chúng ta phải hiểu hạnh phúc đó theo nghĩa nào?
Để minh họa câu trả lời, tôi xin đặt khái niệm hạnh phúc trong mối tương quan của nó với bốn khái niệm khác: 1/ Hạnh phúc và trách nhiệm; 2/ Hạnh phúc và gian lao; 3/ Hạnh phúc và hiệp thông; 4/ Hạnh phúc và khôn ngoan.
1. HẠNH PHÚC VÀ TRÁCH NHIỆM.
Hạnh phúc chính là vấn nạn đầu tiên của giáo lý công giáo, theo đó, khát vọng sâu xa nhất của con người là khát vọng hạnh phúc. Các tôn giáo được sáng lập thật ra là để cống hiến cho con người những con đường hạnh phúc khác nhau. Chọn Kitô giáo có nghĩa là chúng ta tin rằng đó là bí quyết hạnh phúc tối ưu mà con người tìm kiếm. Điểm độc đáo của Kitô giáo là không quan niệm hạnh phúc như một thứ may mắn hay như một món quà gói sẵn. Hạnh phúc theo nghĩa Kitô giáo là viên ngọc quý giấu trong ruộng phải khổ công đào bới, là đồng bạc mất phải đi tìm mới thấy, là cánh cửa phải gõ mới mở. Con người có thể đạt được hạnh phúc đích thật nếu nó biết nỗ lực tìm kiếm. Điều đó đặt ra vấn đề trách nhiệm đối với hạnh phúc.
Có thể nói được rằng nếu đời là một chuỗi trách nhiệm thì trách nhiệm lớn nhất là trách nhiệm đối với hạnh phúc. Tất cả mọi trách nhiệm còn lại đều qui về trách nhiệm hạnh phúc bởi vì đó là mục tiêu tối hậu mà con người đeo đuổi. Trách nhiệm đối với hạnh phúc là trách nhiệm lớn nhất vì chính nó quyết định ý nghĩa cuộc đời. Nói cách khác, đời đáng sống hay không đáng sống, điều đó hoàn toàn lệ thuộc ta có hạnh phúc không.
Theo cách suy nghĩ ở trên, đời linh mục không hạnh phúc, không phải chỉ là chuyện đáng buồn mà thôi nhưng còn là lỗi trách nhiệm. Lỗi trách nhiệm đối với bản thân vì một cách nào đó, khi không tạo được hạnh phúc, chúng ta đánh mất đời mình. Lỗi trách nhiệm đối với Chúa vì chúng ta không sinh lời cho số vốn Chúa trao, vì chúng ta không lấy Chúa làm làm gia nghiệp, làm niềm vui đích thật. Lỗi trách nhiệm đối với Giáo hội vì chúng ta không thể hiện được niềm vui hiền thê của Giáo Hội đối với Đức Kitô là Đức Lang Quân. Lỗi trách nhiệm đối với giáo dân vì không có hạnh phúc, chúng ta sẽ buồn. Mà chúng ta buồn thì cộng đoàn, giáo dân và tha nhân cũng buồn theo.
Như vậy trách nhiệm xây dựng hạnh phúc bản thân gắn liền và kéo theo trách nhiệm đối với hạnh phúc của mọi đối tượng mà chúng ta có tương quan.
2. HẠNH PHÚC VÀ GIAN LAO
Dĩ nhiên hạnh phúc và niềm vui chúng ta đề cập ở đây không chỉ là hạnh phúc và niềm vui bề ngoài thoáng chốc. Niềm vui chúng ta tìm kiếm phải là niềm vui thánh thiện, niềm vui mà Chúa Giêsu đã hứa là “không ai lấy mất được” (Ga 16, 22), hay như niềm vui giữa gian lao ba chìm bảy nổi chín lênh đênh như của Phaolô “Tâm hồn tôi chan chứa niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Co 7, 4).
Không phải Phaolô mới có niềm vui đó. Rất nhiều người cũng đã khám phá niềm vui của Phaolô. Có một cha cựu tuyên úy quân đội, trong trại cải tạo, thường xuyên bị kết tội vi phạm kỷ luật vì lén lút làm lễ và phân phát Mình Thánh Chúa cho anh em bạn tù. Sau nhiều lần bị cảnh cáo và trừng trị ngài vẫn tiếp tục vi phạm. Một hôm viên ban giám thị đã hăm dọa ngài. “Anh mà cứ như thế thì đừng hòng ra khỏi đây”. Thật đáng ngạc nhiên, ngài nhoẻn miệng cười rạng rỡ, đáp lại rằng: “thưa cán bộ, nếu thế thì còn gì bằng. Tôi chỉ muốn xin ở lại đây thôi. Ở đây rất nhiều người đang cần tôi ”.
Đúng là thế gian không thể cướp đi những loại niềm vui như thế. Thứ niềm vui chỉ có Chúa mới có thể ban tặng. Đạt được những giấc mơ trần thế, chiếm hữu được một đối tượng tình cảm, đôi khi chúng ta ngỡ mình đang hạnh phúc. Nhưng rồi những gì diễn ra sau đó cho chúng ta cái kinh nghiệm chua chát rằng thời gian là một tên cướp sẽ tước đoạt tất cả những gì thuộc về thế gian giả trá phù du. Chúng ta chợt khám phá ra rằng đó chỉ là những thứ hạnh phúc hão huyền, thoáng chốc. Hạnh phúc thật đòi chúng ta phải trả giá, như niềm vui Phục sinh phải đánh đổi bằng cái chết ngày thứ sáu tuần Thánh.
Đã có lúc trong vườn cây dầu, Chúa Giêsu thốt lên “Xin cất chén này xa con” nhưng ngay tức khắc ngài đã thêm vào “nhưng xin đừng theo ý con một xin vâng ý cha”. Ngài đã chấp nhận thương đau để niềm vui được nên trọn. Đó cũng chính là thứ niềm vui Chúa hứa cho môn đệ, cho chúng ta: “Bây giờ anh em buồn phiền nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng”.
Trong thông điệp Mùa Chay năm 2006, Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI, gọi Mùa chay là “một cuộc hành hương nội tâm về với Đấng nguồn mạch lòng thương xót. Qua cuộc hành hương này, Thiên Chúa đồng hành với chúng ta xuyên qua sa mạc sự nghèo hèn của chúng ta, nâng đỡ chúng ta trên con đường tiến về niềm vui phục sinh”. Niềm vui Phục sinh sẽ cho chúng ta sức mạnh vượt qua gian nan thử thách. Chắc chắn rằng cuộc đời của chúng ta không phải lúc nào cũng êm ả bằng phẳng. Đôi lúc hay có khi thường xuyên nó là một sa mạc mùa chay. Nhưng đó là cái giá chúng ta phải trả để có được hạnh phúc lâu dài. Đó là điều chắc chắn vì Chúa đã hứa như thế: “Can đảm lên, thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
3. HẠNH PHÚC VÀ HIỆP THÔNG
Hạnh phúc và niềm vui theo nghĩa của Chúa Giêsu không phải là hạnh phúc của người đơn độc. Ngài gắn liền hạnh phúc của Ngài với Cha Ngài và gắn lièn hạnh phúc của môn đệ với hạnh phúc của Ngài. “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy như Thầy đã giữ các điều răn của cha thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em.” (Ga 15, 10-11). Linh mục và nói chung là Kitô hữu, chỉ thực sự hạnh phúc khi đang ở trong Chúa và đang ở với anh em.
Đang ở trong Chúa có nghĩa là đang ở trong tình trạng ơn thánh, đang bình an trong tâm hồn. Khi tôi khuyên một người anh em đang có ý định từ bỏ đời sống linh mục để ra đi, người anh em đó đã nói rằng “con yếu đuối quá, con không làm sao chỗi dậy được. Xin Đức cha thông cảm. Con không chịu nỗi cái mặc cảm mình nhơ bẩn mỗi lần con làm lễ”. Ít lâu sau tôi nghe tin ngài đã ra đi….Đó là một bi kịch đời linh mục. Hạnh phúc của người anh em linh mục đó đã chắp cánh bay xa chỉ vì ngài không giữ được sự bình an tâm hồn, hay nói theo đề tài hôm nay ngài không giữ được mối giây hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Ngoài Thiên Chúa, hạnh phúc đời linh mục còn gắn liền với anh em. Thánh Augustin có một tư tưởng xem ra rất cực đoan, ngài cho rằng công việc của linh mục sẽ trở thành vô ích nếu không cộng tác với giám mục và anh em linh mục. Khi hiệp thông với Giáo Hội, linh mục hòa mình vào đời sống Giáo Hội và khi hòa mình vào đời sống Giáo Hội, linh mục thống nhất được chính đời sống của mình. Ngài lập luận rằng sự hiệp thông Giáo hội và hiệp thông linh mục dẫn đến hiệp thông Ba ngôi, suối nguồn mọi niềm vui. Như vậy đối với thánh Augustinô, sự hiệp thông với Ba ngôi bắt đầu từ hiệp thông đối với anh em linh mục. Trong bài nói về hiệp thông linh mục, chúng ta đã nói về sự cần thiết của nó. Hôm nay chúng ta thấy một khía cạnh khác: hiệp thông linh mục là điều kiện hạnh phúc. Sắc lệnh về đời sống và tác vụ linh mục số 11 viết rằng: “Nhờ hiệp thông với Giáo Hội và linh mục, linh mục kết hợp với ba Ngôi Thiên Chúa và cuộc đời họ luôn tràn trề ơn an ủi và chan chứa niềm vui”.
Như vậy, niềm vui là kết quả của tình liên đới, của tinh thần phục vụ cộng đoàn: “Kìa xem anh em sống chung một nhà, bao là êm ái bao là niềm vui”. Có nhiều người tỏ vẻ ái ngại khi hỏi thăm về Giáo Hội miền Bắc. Nhưng với riêng tôi, làm việc ở Bắc cũng có niềm vui riêng của nó. Vui vì giữa khó khăn thiếu thốn, tôi đã chia xẻ được tình anh em một nhà với con cái trong giáo phận mình. Thật ra, niềm vui như thế không phải chỉ ở ngoài Bắc mới tìm thấy. Bất kỳ ai và bất kỳ đâu, chúng ta vẫn có thể tìm được hạnh phúc nếu chúng ta thấy mọi người đều là thân nhân, hay nói theo ngôn từ chúng ta đang dùng, hiệp thông hóa hiện trường, gia đình hóa mọi người.
Có một ông cố hội thừa sai Paris (MEP) què chân, kể lại rằng ngài được gửi đến một nơi không có nhà thờ lẫn nhà xứ ở Thái Lan. Khó khăn lắm ngài mới thực hiện được một ngôi nhà sàn để làm nơi tập trung dân công giáo trong vùng. Ngày khánh thành ngài mừng quá, đi lại lần hạt tạ ơn Đức Mẹ ở balcon lầu I. Vì mệt, bước thấp bước cao nên ngài ngã nhào xuống đất gãy chân. Nhưng ngài không hề buồn. Mỗi lần nhìn cái chân què ngài lập tức tưởng tượng hàng ngàn người đang ở trong ngôi nhà chung mà ngài đã tạo ra và cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui.
Ngay cả trong trường hợp thất vọng như hai môn đệ làng Emmaus Chúa vẫn tạo điều kiện để họ tìm lại niềm vui đã mất, gặp lại Đấng rừng rực sức sống. Đó cũng là điều chúng ta phấn đấu để thực hiện trong đời linh mục của chúng ta. Luôn luôn ở trong vòng tay của anh em, của tha nhân, luôn luôn ôm trọn mọi người trong trái tim mình. Đó là một bảo đảm chắc chắn cho niềm vui và hạnh phúc.
4. HẠNH PHÚC VÀ KHÔN NGOAN
May mắn cho chúng ta là hạnh phúc đời linh mục khả thi hơn là trong đời hôn nhân. Trong đời hôn nhân người ta không thể chủ động được cách thiết kế hạnh phúc. Có một đêm một người vợ trẻ ôm con hớt hải chạy vào gặp tôi lúc đó đang làm cha phó. Đó là một người vợ khốn khổ chồng say rượu về khuya đòi hỏi đủ thứ chuyện. Chị ta bảo rằng con chờ tới sáng sẽ làm đơn xin ly dị. Dĩ nhiên là tôi phải khuyên chị đừng làm như thế. Nhưng tôi cũng nghĩ chị bất hạnh vì chồng chị không có thiện chí và vô tình làm hỏng đời chị.
Ngược lại, linh mục có thể một mình chủ động hạnh phúc đời mình, không bị ai quấy nhiễu, không bị người chung sống phá đám. Vấn đề còn lại là làm thế nào để thiết kế, kiến tạo và xây dựng hạnh phúc. Nếu biết tìm kiếm, chúng ta sẽ thấy lúc nào Chúa cũng có những món quà để sẵn đâu đó cho chúng ta. Một trong những điều con ớn nhất là nhà vệ sinh công cộng ở VN. Ghê tởm đến độ không dám nhìn. Nhưng có nhu cầu thì cũng phải chịu đựng thôi. Thế rồi một hôm vào mùa Chay, tôi bỗng khám phá ra ý tưởng này: mình phạm đủ thứ tội nên xứng đáng ngửi cái mùi khủng khiếp đó mà đền tội. Từ đó tôi cảm thấy chấp nhận cách dễ dàng mỗi khi có dịp phải vào những nơi như thế. Đó là bằng chứng cho thấy hoàn cảnh dù bi đát ta vẫn có thể tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.
Tôi rất thích làm lễ cho thiếu nhi. Nhất là khi thấy hàng ngàn con mắt long lanh sinh động giống như gà công nghiệp đang nhìn hau háu lên bàn thờ. Thế mà có một bài hát mang tên “những đôi mắt mang hình viên đạn”. Cũng là những con mắt, cũng là những cái nhìn, nhưng có người thấy ở đó sự ngây thơ, trong trắng, có người lại thấy rực lửa hận thù. Thế mới biết là vui buồn ở tại lòng ta, đúng y như Nguyễn Du đã quan sát: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ai đó cũng đã nói “một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn”. Chúng ta cũng có thể nói được rằng “một vị linh mục buồn là một vị linh mục đáng buồn”.
Cần phải giải phóng mình khỏi những nỗi buồn không cần thiết, những suy nghĩ tối tăm bi quan, tập nhìn thực tại bằng một cái nhìn lạc quan, khoan thứ. Mất tiền nếu cứ tiếc mãi, ta sẽ không vui. Chỉ cần nghĩ cách đơn giản rằng tiền cũng giống như râu, cạo đi nó sẽ mọc lại thôi, chắc chắn chúng ta sẽ lại vui.
Xét cho cùng, sống không hạnh phúc cũng là một thứ dại dột. Dại bởi vì nạn nhân số một chính là bản thân mình. Tôi thấy có một cha bàn tay sưng vù như ổ bánh mì. Hỏi thì ngài nói thật là vì giận một chú giúp lễ, tát nó một cái, nó né sang một bên thế là cha đánh phải cột. Thấy tay cha sưng nó sợ quá bỏ về nhà không ở với cha nữa. Hóa ra gậy ông lại đập lưng ông. Giá như cha đừng hung dữ quá như vậy thì cha đâu đến nỗi chuốc vạ vào thân. Đời chúng ta nhiều khi mất vui đi là thế, chẳng những chúng ta không đi tìm hạnh phúc mà lại làm sứt mẻ hạnh phúc. Rốt cuộc, trên con đường truy tầm hạnh phúc, kẻ thù lớn lao nhất vẫn là bản thân mình.
Kết luận
Theo suy nghĩ đó, Chúa Giêsu là người khôn ngoan nhất. Đủ mọi thứ hình tội trên đường khổ nạn. Thế mà, trước khi trút hơi thở cuối cùng, trong đau đớn tột cùng, ngài đã xin Chúa Cha tha cho quân dữ vì họ không biết việc họ làm. Thế là mãn nguyện an tâm nhắm mắt. Các thánh cũng vậy. Các ngài là những người khôn ngoan đã biết tìm cho mình một con đường hạnh phúc riêng. Niềm vui của thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu là con đường thơ ấu thiêng liêng. Của thánh Vinh Sơn là người nghèo, của thánh Phanxicô Assisi là sự phó thác.
Chúng ta cũng có thể làm y như các thánh. Hãy tìm cho mình một đam mê thánh thiện. Chắc chắn hạnh phúc sẽ đến. Cũng vì thế mà Chúa Giêsu đã đề xuất đến tám con đường mà giáo lý gọi là tám mối phúc thật.
Một linh mục đạt đạo là một linh mục hạnh phúc. Sứ điệp cuối cùng tôi xin thân ái gửi đến quí cha là: BẰNG MỌI GIÁ, ĐỜI LINH MỤC CHÚNG TA PHẢI HẠNH PHÚC. Xin Chúa chúc lành và giúp quý cha thành công.
+ GM Giuse Nguyễn Chí Linh
+ GM Giuse Nguyễn Chí Linh - giaosivietnam