Chúa Giêsu Giáng Sinh Năm Nào?
Có thể người ta vẫn nghĩ là Chúa Giêsu giáng sinh năm 0 (năm Không, năm Zero) – khoảng giao niên giữa năm 1 trước công nguyên (TCN) và năm 1 sau công nguyên (SCN), nói chung là khoảng năm 6-7 TCN. Chứng cớ từ Kinh Thánh và các Giáo phụ cũng khác nhau.
Chắc chắn không phải là năm 0 (zero). Chứng cớ cho thấy Chúa Giêsu cũng không sinh năm 1. Đó là điều khá ngạc nhiên, vì chúng ta thường dùng những con số có số 0, nhưng số 0 không là khái niệm để tính năm.
Có thể nghĩ thế này: Cứ thử nghĩ mình có một đứa con và muốn dự định các sự kiện liên quan ngày sinh của đứa con đó. Năm thứ nhất trước khi đứa con sinh ra hẳn là năm 1 SCN, còn năm thứ nhất sau khi đứa con sinh ra hẳn là năm 1 (sinh nhật thứ nhất) là năm đầu tiên của đứa con. Nếu người con là Chúa, hẳn là năm thứ nhất của Chúa, nghĩa là SCN. Như vậy, không có năm 0 giữa năm 1 TCN và năm 1 SCN. Vậy Chúa Giêsu sinh năm nào?

Năm 1 TCN?
Người tính năm Chúa Giêsu sinh ra là tu sĩ Dionysius Exiguus (gọi tắt là Dennis), sống vào thế kỷ VI. Ông nghĩ rằng Chúa Giêsu sinh năm 1 TCN. Thực sự là hơi phức tạp, nhưng chúng ta cứ coi là đơn giản. Ngày nay, đa số đều nghĩ rằng thời gian đó là quá trễ, còn chứng cớ cho thấy sớm hơn vài năm.

Năm 6-7 TCN?
Nếu ít hơn một thế kỷ, đa số cho rằng Chúa Giêsu sinh khoảng năm 6-7 TCN. Lý do: Chúa Giêsu sinh vào cuối triều vua Hêrôđê Cả, băng hà năm 4 TCN.
Hơn nữa, các nhà thông thái đã thấy ngôi sao lạ xuất hiện ở Đông phương từ hai năm trước khi họ đến Giêrusalem, nơi họ gặp vua Hêrôđê. Trở lại hai năm từ năm 4 TCN, chúng ta có năm 6 TCN. Trở lại một năm nữa nếu vua Hêrôđê không mất ngay sau khi họ tới Giêrusalem, chúng ta có năm 7 TCN. Như vậy là năm 6 hoặc 7 TCN. Như chúng ta biết, vấn đề là việc cho rằng vua Hê-rô-đê mất năm 4 TCN. Như vậy có hai cách hiểu “có vấn đề”.

Năm 3-4 TCN?
Chứng cớ cho thấy vua Hêrôđê mất năm 1 TCN. Như vậy, trở lại hai năm thì chúng ta có năm 3 TCN. Trở lại một năm thì chúng ta có năm 4 TCN. Như vậy là năm 3-4 TCN. Vậy là có lý, nhưng lại vẫn có vấn đề.
Chứng cớ khác, bao gồm chứng cớ khác trong Kinh Thánh, cho thấy sớm hơn một chút. Cách hiểu “có vấn đề” là ngôi sao lạ lần đầu được thấy ở Đông phương vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh và thấy hai năm trước khi các nhà thông thái tới Belem.
Vấn đề thứ nhất của cách hiểu “có vấn đề” (trong số các vấn nạn khác) là vì sự xuất hiện của ngôi sao có thể liên kết với điểm khác trong cuộc đời Chúa Giêsu, chẳng hạn như quan niệm của Ngài. Nếu có trường hợp này, người ta cần trừ bớt chín tháng để tìm ra thời điểm Chúa giáng sinh.
Đó cũng là vấn đề vì Thánh Matthêu không nói rằng ngôi sao xuất hiện từ hai năm trước. Điều ngài nói là vua Hêrôđê đã giết hết các trẻ nam từ 2 tuổi trở xuống ở vùng Belem, hợp với thời gian ông ta gặp các đạo sĩ. Nghĩa là có mức xấp xỉ ở đây. Vua Hêrôđê chắc chắn muốn Hài Nhi Giêsu bị giết chết, nhưng ông ta đã lầm to!
Nghĩa là Chúa Giêsu ít nhất gần 2 tuổi, nhưng cũng có thể còn ít tuổi hơn. Điều có thể xảy ra là vua Hêrôđê có thể đã nghe nói rằng ngôi sao xuất hiện một năm trước và ông ta quyết định giết chết các trẻ em nam từ hơn 1 tuổi cho chắc ăn. Sự thật là người xưa thường tính gọn cho trọn một năm, do đó “hai năm” có thể nghĩa là “một năm cộng với nửa năm thứ hai”. Vì thế, có thể là hai năm trước hoặc ít hơn.

Năm 2-3 TCN?
Thời gian được xác định nếu chúng ta bắt đầu từ năm vua Hêrôđê chết là năm 1 TCN. Tính vào các yếu tố ở trên, trở lại một năm, chúng ta có năm 2 TCN. Nếu chúng ta trở lại một năm nữa để hợp với sự kiện vua Hêrôđê không chết ngay, chúng ta có năm 3 TCN. Như vậy, khoảng thời gian nào đó giữa các năm 2-3 TCN sẽ hợp lý, dựa vào những gì chúng ta đọc trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu.
Chúng ta có chứng cớ khác? Có. Cả trong và ngoài Kinh Thánh. Mặc dù Thánh Luca đưa ra một số gợi ý hữu ích về thời gian Chúa Giêsu giáng sinh, chúng ta vẫn không biết đầy đủ. Ngày tháng đăng ký theo lệnh của Augustus còn gây tranh luận, chẳng hạn là quá phức tạp. Tuy nhiên, lại có những điều thú vị. Chẳng hạn, Thánh Luca nói rằng Thánh Gioan Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ vào “năm thứ 15 của triều đại Tiberius Caesar” (Lc 3:1).
Tiberius trở thành hoàng đế sau khi Augustus băng hà vào tháng 8 năm 14 SCN. Tuy nhiên, các sử gia Rôma (Tacitus, Suetonius,...) có xu hướng bắt đầu tính triều đại của một hoàng đế từ ngày 1 tháng Một sau khi họ đăng quang.
Theo cách tính đó, năm thứ 15 của hoàng đế Tiberius Caesar phù hợp với những gì chúng ta gọi là năm 29 SCN. Hãy nhớ rằng, năm thứ 15 là thời gian giữa “khoảng trọn vẹn” của năm thứ 14 và năm thứ 15. Cũng vậy, năm đầu của một trẻ sơ sinh là thời gian giữa thời điểm sinh ra và sinh nhật lần thứ nhất. Sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu vào lúc nào đó sau khi Thánh Gioan Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ, nhưng không quá lâu. Có thể chỉ vài tuần hoặc vài tháng.
Nếu vậy, sứ vụ của Chúa Giêsu có thể cũng bắt đầu từ năm 29 SCN. Điều này quan trọng, vì Thánh Luca cho chúng ta một gợi ý khác: Ngài nói rằng Chúa Giêsu “khoảng 30 tuổi” khi Ngài bắt đầu sứ vụ (Lc 3:23). Như vậy, nếu là năm 29 SCN và trở lại 30 năm, như vậy là đúng? Có thể nghĩ đó là năm 1 TCN, nhưng hãy nhớ rằng không có năm 0, vậy là năm 2 TCN, hoặc là cuối năm 3 TCN. Nếu Thánh Luca tính triều đại hoàng đế Tiberius từ lúc ông ta trở thành hoàng đế chứ không là ngày 1 tháng Một. Như vậy, năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN là ước tính hợp lý.
Đó chỉ là ước tính, vì Chúa Giêsu có thể còn nhỏ hơn hoặc lớn hơn 30 tuổi. Về mục đích so sánh, lưu ý rằng khi Thánh Luca cho biết tuổi của con gái của ông Giai-rô, ngài nói nó “khoảng 12 tuổi” (Lc 8:42). Như vậy, Thánh Luca muốn nói chính xác hơn như vậy. Khi Thánh Luca nói rằng Chúa Giêsu “khoảng 30 tuổi”, có thể ngài không hình dung ra khoảng 25 tới 35 tuổi, mà là “khoảng” nhỏ hơn như vậy.
Các giáo phụ
Có sự tập trung bất ngờ trong các nguồn của Kitô giáo thời sơ khai về năm sinh Chúa Giêsu. Đây là bảng liệt kê của Jack Finegan trong cuốn Handbook of Biblical Chronology (Sổ tay Biên niên sử Kinh Thánh, trang 291) với niên đại được đề nghị từ các nguồn khác:


 Alogoi

 Năm 4 TCN hoặc năm 9 SCN

 Cassiodorus Senator

 Năm 3 TCN

 Thánh Irênê thành Lyon

 Năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN

 Thánh Clement thành Alexandria

 Năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN

 Tertullian thành Carthage

 Năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN

 Julius Africanus

 Năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN

 Thánh Hippolytus thành Rôma

 Năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN

 Hippolytus thành Thebes

 Năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN

 Origen thành Alexandria

 Năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN

 Eusebius thành Caesarea

 Năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN

 Epiphanius thành Salamis

 Năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN

 Orosius

 Năm 2 TCN

 Dionysius Exiguus

 Năm 1 TCN

 Thời gian năm 354

 Năm 1 SCN

Theo đó, rất có thể Chúa Giêsu giáng sinh vào năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN. Thánh Irênê thành Lyon, Clement thành Alexandria, Tertullian, Julius Africanus, và Hippolytus thành Rôma đều viết vào cuối những năm 100 hoặc đầu những năm 200. Cẩn thận đọc Phúc Âm theo Thánh Matthêu, Thánh Luca, và các Giáo phụ, chúng ta có thể xác định rằng Chúa Giêsu giáng sinh vào năm 3 TCN hoặc năm 2 TCN.
JIMMY AKIN
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ NCRegister.com)


Giáng Sinh về, nhớ Dưỡng Phụ Giuse
GiangSinhVe-NhoDuongPhuGiáng Sinh mà không nhắc tới Dưỡng Phụ của Đấng Cứu Thế thì hẳn là điều thiếu sót. Ngài trầm mặc, không nói, nhưng làm nhiều và rất vất vả khi đưa Bà xã về quê để kê khai hộ khẩu. Cực thật. Thấy thương luôn!
Trước hết, tôi xin trần tình một chút: Trong các bài viết, bài dịch và thơ, tôi THÍCH dùng cách xưng hô với Dưỡng Phụ của Chúa Giêsu là “Đức Thánh Giuse”. Nhiều người cảm thấy “dị ứng” với cách gọi như vậy, vì xưa nay chúng ta quen dùng danh xưng Thánh Cả Giuse, có lẽ vì vậy mà người phụ trách một website Công giáo ở Việt Nam (không biết tuổi nhỏ hay lớn) đã gởi mail cho tôi và “hồn nhiên” thắc mắc: “Tại sao có cách gọi là Đức Thánh Giuse mà không là Thánh Cả Giuse?”.
Hồi còn tuổi thiếu niên, khoảng năm 1973-1975, tôi nhớ có đọc một cuốn sách có tựa đề là “Đức Thánh Giuse, Phu Quân Đức Mẹ”, rất tiếc là bây giờ tôi không còn nhớ được tên tác giả. Khi đó, tự dưng tôi rất ấn tượng, và cách gọi đó đã “ăn sâu” trong tâm trí tôi. Riêng tôi thấy cách gọi đó không chỉ HAY mà còn HỢP LÝ.
Theo kiến thức thô thiển của tôi, về danh xưng trong Việt ngữ, khi dùng từ ĐỨC trước một danh xưng là để tỏ lòng kính trọng, vì người đó có uy tín “lớn”. Trong Anh ngữ, Pháp ngữ,… tôi không thấy có từ “Đức” riêng biệt như Việt ngữ. Chúng ta dùng cách gọi Đức Giavê, Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, Đức Chúa Trời, Đức Chúa, Đức Giêsu, Đức Kitô, Đức Chúa Thánh Thần, Đức Thánh Linh. Tất nhiên về Thiên Chúa thì “miễn bàn”, khỏi phải tranh luận, thậm chí danh xưng đó chỉ là cách diễn đạt của con người, ngôn từ trần gian chỉ đến vậy, chưa hoàn toàn xứng tầm với Thiên Chúa.
Về Việt ngữ, từ “Chúa” cũng chưa đủ mức để diễn tả Thiên Chúa, thế nên khi các linh mục Tây phương sang truyền giáo đã kết hợp cách dùng Âu-Việt để gọi Thiên Chúa là “Chúa Dêu” – có lẽ kết hợp từ Pháp ngữ là Dieu (đi-ơ) chăng? (Chữ Dieu có cách viết gần giống với chữ “diêu” của Việt ngữ).
Tiếp theo, chúng ta dùng từ “Đức” với một thụ-tạo-đặc-biệt là Đức Mẹ Maria – cũng gọi tắt là Đức Mẹ, Đức Maria, Đức Trinh Nữ. Là Mẹ Thiên Chúa thì cũng dễ hiểu, miễn bàn. Vậy sao chúng ta chỉ dùng Thánh Giuse hoặc Thánh Cả Giuse, là Dưỡng Phụ của Chúa Giêsu và là Phu Quân của Đức Mẹ, mà lại không dùng danh xưng Đức Giuse hoặc Đức Thánh Giuse? Ngài âm thầm, khiêm nhường, nhịn nhục, lặng lẽ, không nói gì, nên bị lãng quên và bị… “coi thường”? Với các thánh khác, chúng ta cũng chỉ dùng từ “thánh”: Thánh Phêrô, Thánh Phaolô, Thánh Gioan, Thánh Anna, Thánh Têrêsa,… Vậy Thánh Giuse cũng chẳng hơn gì các thánh khác.
Đó là xét theo cách nghĩ của loài người, chứ chính Dưỡng Phụ của Đấng Cứu Thế chẳng cần đâu!
Với những người còn tại thế, còn đầy bản-chất-con-người, nghĩa là còn khả năng sai lầm và tội lỗi, chưa thực sự là thánh, nhưng chúng ta vẫn dùng từ “Đức” trước các danh xưng. Công giáo có Đức Giáo hoàng (thậm chí là Đức Thánh Cha), Đức Hồng y, Đức Tổng Giám mục, Đức Giám mục (Đức Cha), Đức Khâm sứ, Đức Ông, Đức Viện phụ. Ông lớn hơn Cha, sao Đức Ông lại “nhỏ” hơn Đức Cha? Có bất cập và mâu thuẫn?
Chính thống giáo có Đức Thượng phụ. Phật giáo có Đức Phật, Đại Đức (không chỉ “đức” bình thường mà còn “đại”). Cao Đài giáo có Đức Giáo Chủ. Về phần đời có Đức Vua. Và một số vị nổi tiếng như Đức Khổng Tử, Đức Dalai Lama,… Ngay cả người chồng bình thường đôi khi còn được gọi bằng mỹ từ Đức Lang Quân kia mà!
Nói chung, dùng từ “Đức” là để kính trọng. Vậy còn việc dùng từ “Cả” khi gọi Thánh Cả? Nếu có Thánh Cả thì cũng có Thánh “Thứ” (mức độ “nhỏ” hơn hoặc “thấp” hơn). “Cả” là từ miền Bắc. Ngôn ngữ miền Nam và miền Trung gọi là “hai”, nếu vậy có thể (hoặc “phải”) gọi Dưỡng Phụ của Chúa Giêsu là Thánh Hai (kiểu Anh Hai, Chị Ba, Cô Tư, Thím Bảy, Dượng Út,…). Một anh bạn của tôi lý luận: “Trong từ Thánh đã ngụ ý từ Đức”. Tôi hỏi lại: “Vậy tại sao gọi Đức Thánh Cha?” (có cả “đức” và “thánh”). Người đó không trả lời được và nói: “Thôi, cứ để Thánh Linh tác động”.
Phàm ngữ nhiêu khê! Nói là nói vậy. Ngôn ngữ nào cũng có những rắc rối và chưa đủ chuẩn để diễn đạt!
Nếu dùng từ “Đức” làm mức cân-đo-đong-đếm thì Dưỡng Phụ Giuse còn bị “lép vế” lắm, “thua” cả những người còn sống trên trần gian này (!). Thiết tưởng cách xưng hô Đức Giuse, Đức Thánh Giuse hoặc Đức Phu Quân là hợp lý, không có gì là thái quá, chẳng qua là do “thói quen”, nghe chưa “lọt tai” và đọc lên còn cảm thấy “trúc trắc”, bởi vì chúng ta đã quá quen với cách gọi cũ. Mà thay đổi một “nếp nghĩ” hay một “thói quen” đã lâu hẳn là không dễ chút nào vậy!
Trở lại với Đức Thánh Giuse trong dịp Lễ Giáng Sinh. Đức Thánh Giuse đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Dưỡng Phụ của Chúa Giêsu trên trần gian. Thiên Chúa biết Chúa Giêsu cần một Dưỡng Phụ để nuôi dưỡng và giáo dục Ngài về phương diện nhân tính. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đức Thánh Giuse là “người công chính”. Nghĩa là ngài là người tốt, chân thật, công bình, luôn hết lòng vâng phục và yêu kính Thiên Chúa.
Khi thấy Đức Maria mang thai, Đức Thánh Giuse cảm thấy bối rối, không biết xử trí cách nào, nên ngài đã “không muốn tố giác và định tâm bỏ đi cách kín đáo” (Mt 1:19). Hai người mới đính hôn chứ chưa về chung sống với nhau, thế mà “Bà Xã tương lai” lại có cái bụng vượt mặt thì “căng” thật. Gay go hết sức!
Tuy nhiên, khi người-công-chính-Giuse đang toan tính như vậy thì sứ thần của Chúa hiện đến báo mộng: “Này Anh Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Chị Maria về làm vợ, vì người con Chị cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Chị sẽ sinh con trai và Anh phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1:20-21). Khi tỉnh giấc, Chàng Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và vui vẻ đón vợ về nhà. Đức Thánh Giuse được Thiên Chúa trao trọng trách là làm chồng của Đức Maria và làm Dưỡng Phụ của Con Trẻ Giêsu, đồng thời có bổn phận bảo vệ hai Mẹ Con. Đức Thánh Giuse đã vâng lời và hoàn thành nhiệm vụ.
Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Cái khổ này tiếp nối cái khổ kia. Hoàng đế ra lệnh kiểm tra dân số, mà lại là cuộc kiểm tra đầu tiên, thế là Chồng lại phải khăn gói quả mướp lên đường đưa Vợ về quê để kê khai. Đường sá xa xôi, phương tiện chỉ có con lừa. Chồng cho Vợ ngồi trên lưng lừa, còn mình đành lội bộ mà dắt lừa đi. Đêm xuống, Vợ Chồng son tìm chỗ trọ thì chỗ nào cũng bị đuổi như đuổi tà. Chắc họ thấy hai người khách lạ này nghèo rớt mồng tơi, sợ không thể trả tiền phòng. Bị triệt buộc. Thôi đành đi lang thang tìm gốc cây nào đó mà nghỉ tạm.
Nhưng không xong. Đang lúc dầu sôi lửa bỏng thì Vợ lại chuyển dạ mới chết chứ! Giục lừa đi mau. May quá, nghe tiếng léo nhéo của lũ trẻ. Thì ra là cái hang cho đàn súc vật trú đêm. Thôi thì vào vậy chứ biết sao. Mệt bã cả người mà cũng chẳng được nghỉ ngơi vì còn phải lo cho Bà Xã và Con Trẻ suốt đêm. Có lũ trẻ mục đồng lăng xăng cũng vui, quên cả mệt nhọc. Mấy con vật nằm nhai cỏ cũng thấy vui mắt. Nhìn những ánh sao lấp lánh trên nền trời và ngắm tuyết rơi cũng hay hay. Tạ ơn Chúa. Mọi sự cũng qua!
Nhưng rồi rắc rối xảy ra nữa. Sau khi Con Trẻ Giêsu sinh ra tại Belem, thiên thần lại hiện ra với Đức Thánh Giuse và nói rằng Con Trẻ đang gặp nguy hiểm, phải đi trốn sang Ai Cập (x. Mt 2:13-14). Đức Thánh Giuse lại vâng lời sứ thần, đưa Vợ Con sang Ai Cập để trốn “lệnh truy nã” của vua Hêrôđê. Sau nhiều năm lẩn trốn, Thánh Gia mới có thể bình an lên đường trở về quê quán Nadarét.
Sau cơn mưa, trời lại sáng. Nhìn chung, vừa cảm thương vừa cảm phục Đức Thánh Giuse quá!
TRẦM THIÊN THU


Sống Tinh Thần Giáng Sinh
Song TinhThan GiangSinhGiáng Sinh về, vui mừng tưng bừng! Nhưng có thể vẫn có điều khiến bạn quan ngại là sống đúng tinh thần Giáng Sinh với 3 K. Đó là: Khiêm hạ, Khó nghèo, Kính mến.
Hang đá cho thấy một gia đình đúng nghĩa: Cha, Mẹ và Con. Nhiều người trong chúng ta không có một gia đình đúng nghĩa, có thể chỉ còn mẹ, chỉ còn cha, hoặc không còn cha mẹ. Chắc chắn họ sẽ cảm thấy mủi lòng khi ngắm nhìn hang đá trong đêm Giáng Sinh.
Giáng Sinh là dịp người ta gởi thiệp cho nhau, chúc nhau hạnh phúc và thánh đức. Đó cũng là một cách Phúc Âm hóa lẫn nhau, truyền giáo cho những người trong gia đình mình, thậm chí là truyền giáo cho chính mình. Có nhiều cách truyền giáo, cách cũ sẽ không thích hợp với thời đại mới, vì thế mà Giáo hội kêu gọi Tân Phúc Âm hóa, Truyền giáo theo cách mới.

Đây là vài cách đơn giản…

1. Món Quà Thực Tế
Cách truyền giáo đích thực là bắt đầu bằng tình yêu thương và lòng tin tưởng trong các mối quan hệ. Đối với Lễ Giáng Sinh, hãy dành cho người khác những món quà thực tế, đơn giản chứ không cần cầu kỳ: Uống cà-phê, ăn khuya sau lễ đêm Giáng Sinh (gọi là Réveillons, nghĩa là “canh thức”), ăn cơm trưa ngày lễ Giáng Sinh, mời nhau chiếc bánh, dĩa xôi,... Đó là sống kính mến (yêu thương – mến Chúa và yêu người).
Cố gắng tạo mối liên kết tốt hơn trong các mối quan hệ. Nếu có khủng hoảng, hãy loại bỏ càng sớm càng tốt, lễ Giáng Sinh là dịp thuận tiện để tái lập “sự bình thường hóa”. Khi nào mối quan hệ đời thường phát triển tốt đẹp thì niềm tin tôn giáo dễ phát triển.

2. Không Tranh Cãi
Nếu bạn thấy mình đang có “rắc rối” với gia đình về vấn đề gì đó, hãy cố gắng cởi mở giao hòa trước. Đó là khiêm hạ và cũng là sống phục vụ tha nhân. Thánh Phaolô đã từng bị đánh đập tệ hại, dở sống dở chết, thế nhưng thánh nhân vẫn chịu đựng và tha thứ. Giáng Sinh là Mùa Giao Hòa, chắc chắn không thể có những cuộc tranh cãi hoặc chia rẽ.

3. Noi Gương Thánh Gia
Đối với những người nặng gánh gia đình, hãy ngắm nhìn Thánh Gia để được an ủi, vì khó nghèo là một nhân đức được Thiên Chúa đề cao. Khó nghèo chứ đừng khó mà nghèo! Giữa đêm tối tăm, giá lạnh, không chỗ trú đêm, phải vào hang lừa nghỉ qua đêm, thật là gian truân biết bao! Thế mà Đức Maria và Đức Giuse vẫn bằng lòng chấp nhận mọi gian khó vì Chúa.

4.  Chia Sẻ Niềm Vui
Không gì thu hút hơn một người sống vui vẻ, thể hiện qua nét mặt, nụ cười, lời nói,... Thấy người là thấy cười, ai lại không thích? Thấy người là thấy cằn nhằn, ai lại không chán? Kitô hữu là người “có Chúa”, thế thì phải giống Chúa là thân thiện với mọi người, đặc biệt là gần gũi những con người bé nhỏ, nghèo khổ, bị ruồng bỏ,...

Lạy Chúa Hài Đồng, xin giúp chúng con càng ngày càng giống Ngài về mọi phương diện, nhất là trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Mùa Đông Năm Ấy
Bài thánh ca “Mùa Đông Năm Ấy” là một trong các ca khúc phổ biến trong mùa Giáng Sinh, tác giả là cố LM NS Hoài Đức (1922-2007).
Bài này được viết ở âm thể thứ nhưng không sầu não, mà chỉ là sự lắng đọng của tâm hồn khi suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, nhất là trong đêm Con Chúa giáng sinh làm người.
Với nhịp điệu giản dị – dù có 2 chỗ đảo phách ở dạng dễ tấu, khúc thức đơn giản, ca từ cũng bình dân, nhưng ca khúc “Mùa Đông Năm Ấy” vẫn có sức chuyển tải được sự mới lạ:

1. Mùa đông năm ấy sao sáng soi cuối trời, mùa đông năm ấy Con Chúa sinh xuống đời, nhịp ca véo von bao thiên thần vang hát, tôn thờ Ngôi Hai Giáng sinh trần ai.
Con hợp với thiên thần hòa vang câu hát, con hợp với thiên thần hòa vang câu hát, mừng sinh nhật Chúa vinh quang, mừng sinh nhật Đấng Yêu Thương, sinh nhật từ ái sáng như công bình.
Con hợp với mục đồng cùng thờ lạy Chúa, con hợp với mục đồng cùng thờ lạy Chúa, mừng sinh nhật Đấng Cứu Tinh, mừng sinh nhật Đấng Uy Linh, sinh nhật ngày Chúa xuống ơn thái bình.

2. Mùa Đông năm ấy vui tiếng ca nhịp nhàng, mùa Đông năm ấy theo ánh sao huy hoàng, tìm hang Belem những mục đồng mau bước, tôn thờ Ngôi Hai Giáng sinh trần ai.
Con hợp với mục đồng cùng thờ lạy Chúa, con hợp với mục đồng cùng thờ lạy Chúa, mừng sinh nhật Đấng Cứu Tinh, mừng sinh nhật Đấng Uy Linh, sinh nhật ngày Chúa xuống ơn thái bình.

Con hợp với Maria quỳ lạy ngắm Chúa, con hợp với Giuse quỳ lạy ngắm Chúa, mừng sinh nhật Chúa Ngôi Hai, mừng sinh nhật Đấng Thiên Sai, sinh nhật một lễ đáng ghi muôn đời.
Ngày nay quen gọi là Lễ Giáng Sinh, còn ngày xưa quen gọi Lễ Nô-en là Lễ Sinh Nhật, do đó có thể một số người thấy “lạ”, nhất là những người trẻ.

Giai điệu êm đềm lồng trong nhịp điệu thong thả như kể chuyện, ca từ có vần như thơ, tác giả dẫn người nghe dễ đi vào miền sâu thẳm của tâm hồn và lắng đọng với tâm tình cầu nguyện...
Tạ ơn Con Chúa đã đến và cư ngụ giữa trần gian với chúng con, xin hợp lời chúc tụng cùng với các thiên thần trong Đêm Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).

TRẦM THIÊN THU
Thưởng thức bài thánh ca: https://www.youtube.com/watch?v=p7TF8aUbsRE.