Nhân
Mùa Giáng Sinh:
Tìm
hiểu Ngày "Sinh Nhật"
của Chúa Giêsu Kitô
Tại
Hoa Kỳ, cứ sau lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) nhiều gia đình và nhà
hàng bắt đầu trang hoàng trong nhà, cũng như trước cửa nhà để
chuẩn bị vào mùa Lễ Lớn: Đại Lễ Giáng Sinh và năm mới sắp tới.
Một cách đơn giản chúng ta thường hiểu Lễ Giáng Sinh là ngày
lễ mừng Sinh Nhật (Birthday) của Chúa Giêsu và ngày 25 tháng
12, 2005 nầy là ngày sinh nhật thứ 2005 của Chúa Giêsu. Tuy
nhiên, nghiên cứu lịch sử về ngày lễ nầy, chúng ta thấy có những
điều không hẳn đơn giản như vậy.
Một
chút lịch sử ơn cứu độ
Theo
truyền thống Do Thái mà nền tảng là Thánh Kinh Cựu Ứơc, sau
khi tổ tông (Thủy tổ) loài người là ông Adong và bà Eva sa ngã
phạm tội, liền bị mất ân nghĩa với Thiên Chúa (Sách Sáng Thế
3:23). Tuy nhiên vì "Thiên Chúa
đã dựng nên con người theo hình ảnh của Chúa"
(ST 1:27) Ngài không để con người phải án phạt đời đời, nên
Ngài đã hứa ban một Đấng Cứu Thế
đến để cứu chuộc tội lỗi nhân loại (ST 3:15) và danh hiệu của
Ngài là Đấng Cứu Tinh
(Messiah). Nguyên ngữ trong tiếng Do Thái thì Messiah
có nghĩa là Đấng được xức dầu.
Theo thói tục của người Do Thái thì ai được chọn làm Vua, làm
Tiên Tri (Prophet), làm thầy Tư Tế đều được phong chức chính
thức bằng việc xức dầu thánh (dầu ô liu) trên đầu. Danh từ Messiah
chuyển dịch qua tiếng Hy Lạp là Christos.
Danh từ Christos chuyển sang tiếng La-tinh là Christus
và sang tiếng Pháp, tiếng Anh là Christ,
Tiếng Việt Nam (theo các bản dịch Thánh Kinh của Công Giáo,
và các sách đạo đức) chuyển dịch là Kitô
(hay Kytô).
Theo
Do Thái Giáo thì đấng Messiah (Kitô) chưa tới cứu độ Dân Ngài.
Hàng năm người Do Thái vẫn đến bên bức
Tường Khóc để cầu nguyện xin Đấng Cứu Độ đến.
Theo
Kitô Giáo thì Đấng Kitô đã Giáng Sinh, và khi Ngài sinh ra thì
được đặt tên là Giêsu (Jesus) theo như lời sứ thần truyền tin
cho Maria, mẹ Ngài, đã báo trước (Xin xem Phúc Âm Luca 1:31
và 2:21). Danh từ Giêsu
theo nguyên ngữ Do Thái có nghĩa là Đấng
Thiên Chúa Cứu Độ, sau đó hiểu là Đấng Cứu Độ (Savior).
Vì Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô Thiên Chúa đã hứa, nên tên
Ngài thường được gọi là Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô trong các thơ gửi các giáo đoàn thường dùng danh
hiệu Giêsu Kitô. Chúng ta cũng nên lưu ý là vào thời xưa một
người chỉ có tên gọi, chưa có tên họ và tên đệm; nhưng có những
tên hiệu ghép vào tên gọi trong một số trường hợp, nhất là trường
hợp của các vua chúa hay các Danh Nhân. Theo Kinh Thánh, Chúa
Giêsu cũng được gọi là Emmanuel
hay Immanuel (PÂ Luca
1:23). Danh từ Emmanuel
trong tiếng Do Thái có nghĩa là Thiên
Chúa ở cùng chúng ta. Danh hiệu Emmanuel đã được
Tiên Tri Isaia (740-687BC) nói đến (Sách Isaia 7:14).
Chúa
Giêsu sinh ra năm nào?
Năm
Thiên Chúa Giáng Sinh làm người được kể là năm thứ nhất theo
lịch chung chúng ta dùng hiện nay; như thế sinh nhật của Ngài
đã chia đôi lịch sử nhân loại.
Theo
lịch sử Thánh Kinh thì từ tạo thiên lập địa đến
năm Chúa Giáng Sinh được gọi là Thời Kỳ Cựu Ước và từ năm Chúa
Giáng Sinh trở về sau được gọi là Thời Kỳ Tân Ước. Theo
lịch chung chúng ta dùng hiện nay thì trước thời
Chúa giáng sinh gọi là trước Công Nguyên, thường ký hiệu là
B.C. Before the birth of Christ và từ năm Chúa giáng sinh cho
đến ngày tận thế thì gọi là sau Công Nguyên thường ký hiệu là
A.D. Anno Domini Theo năm của Thiên Chúa.
Như
vậy ngày 25 tháng 12 năm 2005 này chúng ta mừng sinh nhật thứ
2005 của Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên vì các nhà làm lịch lúc
đầu tính lầm nên năm Chúa Giêsu giáng sinh bị lệch đi mất 6
hoặc 7 năm. Nếu tính đúng thì năm 2005 sẽ phải là năm 2011 (hoặc
2012). Nói một cách khác, đơn giản hơn, thì vào năm 2005 này
tuổi của Chúa Giêsu đã là 2011 (hoặc 2012).
Lý
do của việc tính lầm nầy là vì vào thời xưa người ta chưa có
lịch chung như ngày nay, nên thường tính năm theo triều đại
của các vua như Đời Vua Hùng Vương thứ 18... chẳng hạn, hoặc
theo một biến cố lịch sử nào đó như năm Tần Thủy Hoàng ra lệnh
xây Vạn Lý Trường Thành chẳng hạn. Các thánh sử khi viết sách
Phúc Âm hay Tin Mừng cũng dùng niên hiệu các vua cùng với những
biến cố lịch sử nào đó. Thí dụ: Thánh Matthêu viết: Khi Chúa
Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđêa, thời vua Hêrôđê trị vì...
(xin xem PÂ theo Thánh Matthêu 2:1... ). Thánh Luca viết: vào
thời Hoàng Đế Augustô ra chiếu chỉ Kiểm Tra dân Số... Khi Giuse
và Maria đang ở Bêlem, thì Maria đến ngày sinh con... (xin xem
PÂ Luca 2:1... )
Khi
Chúa Giáng Sinh thì nước Do Thái (vùng Palestina) đang dưới
quyền đô hộ của Đế Quốc Rôma. Lúc đó Đế Quốc Rôma đang cai trị
nhiều vùng rộng lớn, bao gồm cả vùng Trung Đông. Hoàng Đế Rôma
lúc đó là Augustô. Còn vua Hêrôđê chỉ là một tiểu vương thay
mặt hoàng đế Rôma cai trị miền Giuđêa (phiá nam Palestina) và
nhà vua không phải là người Do Thái. Vùng đất Palestina (nơi
người Do Thái sinh sống thời đó) gồm ba miền: Galilê (Bắc),
Samaria (Trung) và Giuđêa (Nam). Thành Bêlem nơi Chúa Giáng
Sinh và thủ đô Giêrusalem nằm phiá nam thuộc Giuđêa. Vua Hêrôđê
này thường được gọi là vua Hêrôđê Cả (Herod the Great) để phân
biệt với Hêrôđê Antipa là con. Vua Hêrôđê Cả là người đã tiếp
kiến các nhà đạo sĩ phương đông đến triều yết, để hỏi đường
đến chiêm bái vị vua mới sinh ra (Matthêu 2:1...). Cũng nhà
vua nầy đã ra lệnh giết các hài nhi mới sinh từ hai tuổi trở
xuống... (xin xem thêm PÂ Matthêu 2:1…). Theo các sử gia thì
nhà vua này chết vào năm 4 trước Công Nguyên, tức là sau khi
Chúa Giêsu sinh ra chừng 3 hay 4 năm (vì Chúa Giêsu sinh ra
vào năm 6 hay 7 trước Công Nguyên, do nhà làm lịch tính lầm
năm, như đã nói trên) Khi Thánh Giuse nghe tin nhà vua đã chết,
liền đem Đức Maria và Chúa Hài Nhi trở lại quê hương (PÂ Matthêu
2,19...) (Như vậy là Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Hài Nhi Giêsu
cũng đã phải trải qua một thời di cư sống nơi đất khách, quê
người như nhiều người Việt Nam chúng ta hiện nay!).
Riêng
về Hêrôđê Con ông là người đã ra lệnh xử trảm Thánh Gioan Tiền
Hô (PÂ Matthêu 14:4). Nhà vua này cũng là người đã Rất mừng
rỡ khi gặp mặt Chúa Giêsu... (PÂ Luca 23:6...) khi Người bị
bắt và đang bị xử án.
Nếu
tính theo triều đại Hoàng Đế Rôma Augustô, thì Chúa Giêsu sinh
ra vào đời Hoàng Đế Augustô thứ 20.
Thực
ra người chủ trương lấy năm Chúa Giêsu sinh ra là năm I để bắt
đầu Công Nguyên là ông Diônisiô (khoảng năm 556) đã tính lầm
năm sinh của Chúa, vì ông căn cứ vào năm xây dựng thành Rôma
và tính là Chúa giáng sinh vào cuối năm 753 sang năm 754 (sau
khi thành lập thành Rôma) là năm Chúa giáng sinh, tức là năm
I cuả Công Nguyên. Nhưng sau này các sử gia và các học giả kinh
thánh và lịch sử Đế Quốc Rôma nghiên cứu lại các thời đại Hoàng
Đế Augustô và vua Hêrôđê Cả mới thấy là Chúa Giêsu phải sinh
ra sớm hơn khoảng năm 746 hay 747 sau khi thành lập thành Rôma,
và vì thế năm sinh của Chúa bị ghi hụt đi mất 6, 7 tuổi và cũng
vì thế mừng sinh nhật cúa Chúa năm 2003 chính ra đã là năm 2009
(hay 2010). Tóm lại, năm Chúa Giêsu Kitô Giáng Sinh là:
(Qúy
vị có thể xem thêm tài liệu trong các sách chú-giải về Kinh
Thánh hoặc đọc phần Dẫn Nhập vào Kinh Thánh Tân Ước trong các
bản dịch Kinh Thánh của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn; hoặc của
Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ; hoặc trong The New American
Bible; hoặc trong Bible de Jêrusalem).
Chúa
Giêsu sinh ra ngày nào?
Đọc
tiểu sử của các vĩ nhân trên thế giới thời xưa, chúng ta thường
không thấy nói đến ngày sinh; chẳng hạn Socrate (khoảng 470-399
BC) hay Platon (khoảng 428-348 BC) v.v... Ngay các cụ trọng
tuổi của người Việt Nam chúng ta bây giờ, nhiều vị cũng không
nhớ ngày sinh, tháng đẻ của mình; nhiều cụ chỉ nhớ là tuổiMùi
hay tuổi Thìn. Ngay cả ngày tháng năm sinh của các cụ trên giấy
khai sinh cũng không đúng hẳn... Ngày sinh của Chúa Giêsu cũng
không được ghi lại đầy đủ trong các sách Phúc Âm (Tất nhiên
Chúa Giêsu cũng không có giấy khai sinh hay sổ bộ khai sinh...)
Nhưng
tại sao lại mừng ngày Chúa Giêsu ra đời vào 25 tháng 12 hằng
năm? Thực ra, trong ba thế kỷ đầu (các Kitô hữu
chỉ họp nhau để kỷ niệm việc Chúa Giêsu đã chịu đau khổ, đã
chịu chết và đã sống lại. Đặc biệt tụ họp vào ngày thứ nhất
trong tuần (Ngày Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết: xin xem PÂ
Gioan 20,1...) và gọi ngày này là Chúa Nhật. Việc cử hành phụng
vụ này gọi là Nghi Lễ Bẻ Bánh (ý nói đến việc cử hành nghi lễ
Thánh Thể) (xin đọc sách Tông Đồ Công Vụ đoạn 2, câu 42...).
Trong những cuộc họp mặt này, các Kitô hữu cùng gặp gỡ nhau,
chia sẽ tình thân hữu và niềm tin, rồi cùng nhau cầu nguyện
và dự Lễ Thánh Thể (Nghi Thức Bẻ Bánh). Lúc đầu chưa có các
Thánh Đường, nên thường tùy tiện họp mặt tại các tư gia hay
nơi nào có thể được, như tại hành lang Salomon (TĐCV 5:12...).
Tuy nhiên việc Cử Hành này cũng không được đều đặn, vì ngay
từ lúc đầu các Kitô đã bị bách hại và xua đuổi. Đọc sách Tông
Đồ Công Vụ (The Acts of Apostles), ta thấy rõ điều này: trong
khi các tông đồ và các tín hữu ra sức rao giảng Tin Mừng tình
thương của Chúa cho mọi người ở mọi nơi họ sống, thì họ cũng
luôn bị những thế lực thù nghịch chống đối và bách hại; vì bóng
tối luôn thù nghịch ánh sáng. Những người sống theo thế gian
thì thù ghét những ai sống ngược lại với lối sống của họ! Tất
nhiên Thầy của mình là Chúa Giêsu Kitô đã bị thù ghét, bị bắt,
bị hành hạ và bị giết nhục nhã trên thánh giá, thì các môn đệ
của Thầy qua các thế hệ đều cũng bị bách hại cách này hay cách
khác... Tuy nhiên, trong ba thế kỷ đầu thì các cuộc bách hại
rất dữ dội ngay tại nơi đất nước quê hương của Chúa Giêsu và
các tông đồ, và sau đó là ở khắp các nơi trong toàn Đế Quốc
Rôma. Hơn nữa, lúc đó chưa có các tổ chức Bảo Vệ Nhân Quyền
hay Bảo Vệ Tự Do Tôn Giáo, nên các nhà cầm quyền tự do đàn áp
và tàn sát các tín hữu và các vị lãnh đạo tôn giáo của họ, bất
kể ở các chức vụ nào. Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên và
các Thánh Tông Đồ đều bị giết, trừ Thánh Gioan thì bị lưu đày
cho đến chết. Các vị Giáo Hoàng tiếp theo cũng như các thành
phần trong giáo hội đều bị xua đuổi, bị bắt, bị tù đày và bị
giết thảm khốc (nhất là dưới thời Hoàng Đế Nêron).
Trong
hoàn cảnh cực khổ đó, các vị lãnh đạo và các tín hữu tiếp tục
giữ vững đức tin và tiếp tục rao giảng Tin Mừng và họp mặt cầu
nguyện và cử hành nghi lễ Thánh Thể bất cứ lúc nào và nơi nào
có thể được để an ủi và nâng đỡ lẫn nhau trong cuộc sống đức
tin đầy khó khăn như thế. (Xin xem thêm về chuyện các Hang Toại
Đạo Catacombs tại Rôma ngày xưa). Cho mãi đến năm 313 khi một
Hoàng Đế Rôma có tên là Constantino Đại Đế (Constantine The
Great) ( 280-337) (theo đạo Công Giáo, Mẹ là Thánh Helene) ký
hiệp ước Milan (Edit de Milan) để bảo đảm quyền tự do tôn giáo,
lúc đó giáo hội mới được hưởng một thời kỳ an-bình (Paix de
LEglise) và lúc đó, các Kitô hữu mới được hưởng chút tự do để
thờ phượng Chúa và các thánh đường được xây cất, các buổi họp
mặt cầu nguyện, học hỏi Thánh Kinh và cử hành Lễ Thánh Thể mới
được thường xuyên hơn... Tuy nhiên đến năm 336 mới thấy việc
cử hành ngày Chúa Giáng Sinh (Christmas Day) xuất hiện trong
lịch phụng vụ của Giáo Hội. Việc mừng Lễ Giáng Sinh của Chúa
Giêsu chắc là trùng hợp với việc các Kitô hữu, khi đã được hưởng
thời gian an bình để sống đạo, liền nghĩ đến việc hướng về quê
hương của Chúa, nhất là nơi Chúa Giáng Sinh là thành Bêlem và
hành hương kính viếng và chung tay xây cất Đền Thờ Chúa giáng
sinh tại Bêlem vào năm 330.
Vì
ngày Chúa Giáng Sinh không được ghi rõ ràng trong các văn kiện
lịch sử cũng như trong các sách Phúc Âm, nên Giáo Hội đã chọn
một ngày thích hợp là 25 tháng 12 là ngày gần với ngày đông
chí (winter solstice), ngày ngắn nhất đã qua và ánh sáng lại
trở lại... và vì thế các dân tộc Trung Đông thời cổ hay mừng
ngày ánh sáng vào 25 tháng 12; rồi Giáo Hội muốn thánh hóa ngày
này bằng việc kính nhớ ngày Thiên Chúa Giáng Sinh Đất Trời Giao
Hoà. Như vậy ngày 25 tháng 12 không phải là ngày có tính cách
lịch sử mà chỉ là ngày kỷ niệm mừng Chúa giáng trần để giao
hoà với nhân loại và loan báo tin mừng cứu độ (xin xem thêm
Preaching the Lectionary của R. H. Fuller). Đây chỉ là một việc
làm theo tiện lợi, tạm ví như nhiều cụ khi ở Việt Nam thì không
có thói quen mừng ngày sinh nhật (birthday) (tất cả chỉ mừng
vào dịp Tết). Nhưng đến Hoa Kỳ, giới trẻ thích sống theo văn
hóa địa phương, đã có thói quen mừng, sinh nhật, và cũng muốn
các bậc cha mẹ có một ngày để mừng cho con cháu vui vẻ trong
gia đình. Các cụ nào không nhớ được ngày sinh nhật chính thức
của mình, đã chọn một ngày nào đó; chẳng hạn có cụ chỉ nghe
cha mẹ nói là mình sinh vào dịp tháng tám mưa bão, liền chọn
một ngày trong tháng 8. Có cụ chỉ nhớ cha mẹ nói là sinh vào
giữa mùa gặt (ở ngoài bắc thì vào tháng 5) nên chọn một ngày
vào tháng 5. Kể cả việc ngày giỗ của một số vị trong gia đình
cũng không thể đúng ngày; nhiều gia đình có chồng con mất tích
trong cuộc chiến, khi biết chắc là đã chết, liền chọn một ngày
để kính nhớ (thường hay chọn vào ngày nghe tin mất tích...).
Vì
ngày mừng lễ Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm không xác thực
theo lịch sử nên thường có những ý kiến chống đối; đặc biệt
vào thế kỷ 17 tại Anh Quốc, những người Thanh Giáo (Puritans)
đã nỗ lực để yêu cầu xóa bỏ việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa
Giêsu; nhưng mọi nỗ lực đều thất bại, và việc mừng Chúa Giáng
Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm vẫn tiếp tục ở Anh Quốc cũng như
khắp nơi trên thế giới. Hơn nữa, việc mừng lễ Giáng Sinh của
Chúa không phải chỉ đơn thuần mừng ngày sinh nhật của Chúa,
mà còn có ý nghiã thiêng liêng chuẩn bị tâm hồn đón Chúa vào
tâm hồn tín hữu, và ngày Chúa trở lại trần gian lần thứ hai
trong ngày thẩm phán. Vì thế có gần một tháng để tín hữu chuẩn
bị lễ Giáng Sinh, gọi là Mùa Vọng (ngày xưa gọi là Mùa Áp) (Advent).
Mùa Vọng là mùa Giáng Sinh khởi đầu niên lịch phụng vụ của Giáo
Hội, tiếp theo là Mùa Thường Niên I, rồi đến Mùa Chay (Lent)
để chuẩn bị Đại Lễ Phục Sinh và Mùa Phục Sinh, rồi đến Mùa Thường
Niên II kéo dài đến Mùa Vọng cho một niên lịch phụng vụ mới.
Nơi
đây chúng tôi cũng xin nói thêm là trước lễ Giáng Sinh 9 tháng,
Giáo Hội có một ngày mừng lễ đặc biệt gọi là Lễ Truyền Tin (Annunciation)
để kỷ niệm giờ phút sứ thần Thiên Chúa báo tin cho Đức Maria
biết Thiên Chúa đã chọn Ngài làm người được diễm phúc cưu mang
và sinh Đấng Cứu Thế... Và Đức Maria đã Xin Vâng (xin xem Phúc
Âm Luca đoạn I, từ câu 26...). Đây chính là giờ phút rất quan
trọng trong lịch sử ơn cứu độ, giờ phút Đất Trời Giao Hoà, Ngôi
Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (PÂ Gioan
1,14). Chính vì thế mà trong toàn Giáo Hội có thói quen Nguyện
Kinh Truyền Tin vào ba lúc quan trọng trong một ngày: sáng,
trưa, chiều. Khi nghe tiếng Chuông Nguyện mọi tín hữu đều ngưng
các công việc để nguyện kinh Truyền Tin mà nhớ đến giây phút
quan trọng này: Và Ngôi Lời đã nhập thể trong lòng Đức Trinh
Nữ Maria. Rất nhiều nhạc sĩ, thi sĩ Công Giáo các nơi đã sáng
tác các bài thánh ca hoặc các bài thơ diễn tả giây phút huyền
nhiệm nầy; đan cử như bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, bài Theo
Tiếng Thiên Thần xưa Kính Chào của Hoàng Diệp, bài LAnnonce
faite à Marie của Paul Claudel (văn hào Pháp).
Ngày
nay lễ Giáng Sinh (có nơi gọi là lễ
No-en Noel) càng ngày càng lan rộng đi khắp nơi,
đến cả các dân tộc ít có các Kitô hữu, và ngay cả các nước còn
đang dưới chế độ Cộng Sản như Cuba, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc
Hàn cũng không thể ngăn cản dân chúng rầm rộ mừng lễ No-en.
Đáng tiếc là ngày nay người ta đã thương mại hóa dịp lễ này
mà làm giảm đi phần nào ý nghĩa thiêng liêng cao cả. Tuy nhiên
điều lạm dụng đó cũng không thể làm giảm đi tinh thần mừng lễ
đích thực trong lòng những người thành tâm thiện chí (Abusus
non Tullit Usum) và họ được hưởng ơn phúc lộc an bình trong
tâm hồn và trong gia đình họ, như lời các Thiên Thần hát mừng
trong đêm Chúa Giáng Sinh:
Vinh
Danh Thiên Chúa trên Trời,
Bình an dưới thế cho người thành tâm!
Kính
chúc quí vị được hưởng nhiều ơn phúc lộc của Chúa trong dịp
lễ Giáng sinh 2005 này, và những ơn phúc đó sẽ tràn lan sang
năm mới 2006, đem đến bình an thật của Chúa trong tâm hồn và
gia đình mỗi người chúng ta, cũng như cho toàn thể thế giới
và trên quê hương dân tộc Việt Nam chúng ta.
Lm. Anphong Trần Đức Phương