|
|
| |
Biên soạn:
Rev. John, CMC |
|
Chân
Phước
Đamianô De Veuster, SS.CC.
Vị
Tông đồ và người Cha của bầy
con phong cùi. (1840-1889)
Khi Thầy Đamianô vượt trùng dương
để đến hải đảo Hawaii vào
năm 1863, có lẽ Thầy đã không thể
ngờ được rằng chính trong miền
đất truyền giáo này, sức khoẻ và
đức tin của Thầy sẽ gặp phải
rất nhiều thử thách. Dù vậy, sau nhiều
năm chịu đựng biết bao trở ngại
và thiếu thốn, Thầy vẫn luôn sẵn
sàng thưa tiếng "xin vâng" với tất
cả những điều Thiên Chúa muốn thực
hiện nơi thầy.
Trong gia đình, ngài được gọi là Jef.
Ông thân sinh là một thương gia buôn bán lúa thóc.
Jef sinh ngày 3 tháng 1 năm 1840, trong một xóm nhỏ,
ngày nay là thành phố Tremeloo, Bỉ quốc. Khi
đến tuổi cắp sách đến trường,
Jef cũng được theo học như các
trẻ em khác, nhưng đến năm 13 tuổi
thì cậu phải phụ giúp cha và hai ông anh làm
ruộng trong phần đất của gia đình.
Khi Jef được 18 tuổi, cha chàng quyết
định cho chàng đi vào ngành buôn bán lúa gạo.
Nhưng vì ông bà biết rằng chàng không đủ
trình độ học thức, hơn nữa,
vì ngành này cần phải biết tiếng Pháp,
nên ông bà đã cho Jef vào học nội trú tại
trường Walloon. Chính ở đây, lần đầu
tiên Jef được ơn thúc đẩy muốn
theo ơn gọi tu trì. Nhưng nhiều trở
ngại đang đón chờ chàng.
Về vấn đề học vấn, Jef tự
biết là mình không thể theo kịp những
người cùng tuổi. Thêm vào đó, ba trong tám
anh chị em của chàng đã đi tu, nên chàng
biết rằng gia đình chàng mong chàng bước
vào ngành thương mại để phụ giúp
cha. Trong mấy tháng tiếp theo, Jef đã phải
gạt ý tưởng đi tu qua một bên. Nhưng
sau cùng, Jef đã thưa với cha mẹ, và các
ngài đã đồng ý cho chàng bước theo
con đường chàng tin rằng đó là Thánh
Ý Chúa. Sau đó, chàng được ông anh là Pamphile
khuyên nên nhập Dòng Thánh Tâm, nơi Pamphile đang
là một tập sinh.
Jef đã xin nhập Dòng Thánh Tâm, và nhờ sự
giúp đỡ của anh Pamphile, chàng đã được
chấp nhận. Vì không biết tiếng Latinh
và cũng không thạo tiếng Pháp, nên Jef chỉ
được nhận là một tập sinh để
sau này trở thành một sư huynh thay vì trở
thành linh mục như lòng Jef hằng ao ước.
Dù vậy Jef không thất vọng. Thầy bắt
đầu học tiếng Latinh, Hy Lạp, và
triết học. Khi trở thành một phần
tử của Dòng, Thầy đã nhận tên mới
là Đamianô.
Lúc này, không những Thầy Đamianô là một
thanh niên cường tráng, khoẻ mạnh, mà cũng
là một con người rất khôi hài. Thầy
đã giữ mãi được tính khôi hài này trong
trót cuộc đời. Cũng chính vì những
đặc tính đó, nên anh em Dòng cũng như
các giáo sư đã đặt cho Thầy một
mỹ hiệu là: "Le bon gros Đamianô" (Anh
chàng Đamianô to con tốt lành).
Đến năm 1863, nhà Dòng quyết định
gởi một số tu sĩ đến Hawaii
để giúp việc truyền giáo tại đây.
Thầy Pamphile đã được chọn vào
số những người được sai
đi. Nhưng trước ngày khởi hành, Thầy
Pamphile đã bị sốt rét nặng, và đã
phải bỏ ý định đi truyền giáo.
Thầy Đamianô đã đệ đơn xin
Bề trên cho phép đi thay anh. Lời thỉnh
cầu của Thầy đã được chấp
nhận. Thầy liền vội vã về từ
giã gia đình trước khi bắt đầu
cuộc hành trình vượt đại dương
kéo dài trong 4 tháng rưỡi.
Tại Hawaii, Thầy Đamianô đã theo học
tại Đại học Ahumanu, ở Oahu, để
hoàn tất chương trình chuẩn bị lãnh
chức linh mục. Thầy đã chuyên cần
học hành đến nỗi trong 4 năm, Thầy
đã hoàn tất một chương trình học
đòi phải mất 10 năm mới có thể
xong.
Lúc đó, Hawaii chưa phải là một thuộc
địa của Hoa Kỳ. Đây chỉ là một
lãnh thổ có vua cai trị và cũng là một
cánh đồng truyền giáo. Lãnh thổ này gồm
có một số đảo, mỗi đảo
lại được chia ra nhiều vùng, và mỗi
vùng thường có vài linh mục truyền giáo
hoạt động. Tám tháng đầu, Cha Đamianô
phục vụ tại miền Puna. Sau đó Cha
được trao phó coi sóc hai vùng Kohala và Mamakue.
Miền này rộng lớn đến nỗi ngài
phải mất 6 tuần dùng ca-nô và ngựa mới
có thể viếng thăm hết một vòng. Cha
Đamianô đã dùng 8 năm đầu ở Hawaii
để truyền giáo cho dân Hawaii, giúp mục
vụ cho các tín hữu, xây nhiều nhà thờ,
đồng thời học tiếng Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha, và thổ ngữ Hawaii. Cha đã
gặp rất nhiều khó khăn đối với
tiếng Hawaii. Vì sự khó khăn này, lắm lúc
ngài đã làm cho dân Hawaii không thể nín cười,
nhất là mỗi khi ngài lấy khăn tay ra để
lau mũi trong lúc nghĩ cho ra đúng từ để
nói.
Đối với việc truyền giáo cho người
Hawaii, ngài cảm thấy dân chúng rất thích các
nghi thức bề ngoài, nên họ cần phải
có nhiều nhà thờ, được trang hoàng
đẹp đẽ và lộng lẫy. Nhưng,
cũng như tại các xứ truyền giáo khác,
ngài không thể tìm đâu cho ra tiền để
thực hiện như ý muốn. Dù vậy, Cha
đã dùng số tiền ngài có, để mua các
vật liệu, và với sự trợ giúp của
dân chúng, không bao lâu Cha đã xây được
một số nhà thờ.
Cũng vào thập niên 1860, chứng bệnh phong
cùi đã lan đến các hải đảo Hawaii,
nhất là qua bệnh đậu mùa. Trong lịch
sử nhân loại, không có bệnh nào gây nên hoang
mang kinh sợ và gây nhiều hiểu lầm cho
bằng bệnh phong cùi. Ngày nay, chỉ có một
trong bốn loại chính của phong cùi bị
coi là bất trị, nhưng thực ra cả
loại này cũng có thể chữa khỏi, hay
ít là cầm hãm được bằng thuốc
sulfone, nếu được chữa trị ngay
khi mới mắc phải. Năm 1970, người
ta đã tìm ra được một phương
pháp mới rất công hiệu trong việc chữa
trị bệnh phong này.
Nhưng vào thời đó, không ai biết đích
xác bệnh phong cùi là thế nào. Và vì không có cách
chữa trị, nên các bệnh nhân bị nó hành
hạ thật ghê sợ: toàn thân bị đau
đớn, và chẳng bao lâu thân thể bị
biến dạng. Cũng vì không biết đích
xác, nên nhiều giả thuyết đã được
đưa ra về cách truyền nhiễm của
nó, trong đó gồm có cả ho lao và giang mai. Giả
thuyết nào cũng cho là bệnh này có thể
bị truyền nhiễm. Ngày nay chúng ta biết
là nó có truyền nhiễm, nhưng ít ra phải
có sự đụng chạm liên tiếp trong khoảng
thời gian từ 3 đến 30 năm; và đối
với một số người, cả sau thời
gian này cũng không bị nhiễm. Chính vì sự
thiếu hiểu biết đó và vì sợ hãi,
vua Kamehameha V đã ra lệnh cho tất cả
mọi người cùi phải được
chuyển đến đảo Molokai.
Dù một số người hiểu biết đã
sẵn sàng ra đi, một số gia đình khác
đã không thể chịu mất đi người
thân yêu của họ. Thế là cảnh sát đã
được lệnh truy lùng tất cả những
người này.
Không lâu sau, Molokai đã được tiếng
là một bãi tha ma vô trật tự. Những người
vừa bước lên đảo đều được
bảo cho biết: "Ở đây không có pháp
luật". Những người con bị cha
mẹ bỏ rơi đã được "dân"
Molokai nhận về làm đầy tớ trong
nhà. Các thiếu nữ đã bị bó buộc làm
điếm để sống qua ngày. Và khi thân
thể đã quá biến dạng, thì bị đuổi
đi. Trộm cắp, say sưa, và cãi lộn
là chuyện rất thường xảy ra trên
đảo.
Tất cả những điều đó xảy
ra cũng chỉ vì không có cảnh sát để
giữ trật tự, không có linh mục để
cử hành các bí tích và giúp ổn định đời
sống luân lý, và không có bác sĩ, y tá để
giúp chữa trị. Cho dù lúc đó chính phủ
có cung cấp thực phẩm và quần áo, nhưng
không đủ cho mọi người.
Dầu vậy, trên đảo cũng có một
nhóm nhỏ người Công Giáo thành tâm. Chính họ
đã xin Đức Giám Mục cho linh mục đển
để cử hành các Bí Tích. Họ đã gây
quỹ để mua dụng cụ xây nhà thờ,
và một thầy đã được gởi
đến để trợ giúp họ trong việc
này. Khi trở về với Đức Giám Mục,
thầy đã đem theo lá thư thỉnh cầu
xin Đức Cha cho một linh mục ở lại
với họ. Sau cùng, Đức Cha đã đồng
ý. Cha Đamianô và 3 linh mục khác được
chỉ định thay nhau đến để
phục vụ. Mỗi linh mục sẽ ở
3 tháng tại Molokai, sau đó lại trở về
nhiệm sở cũ. Cha Đamianô được
sai đi đầu tiên.
Molokai không phải là một nơi tốt để
sinh sống, nên vị linh mục trẻ này đã
phải kinh hãi vì cuộc sống ở đây.
Nhất là cảnh tượng da thịt rữa
nát của người cùi toả ra một mùi
hôi thối như thây ma. Nhiều lần, Cha đã
phải nhắc nhở chính mình rằng, trong ngày
Khấn Dòng, mình đã nằm dưới tấm
khăn mồ, với lời hứa sẽ chết
cho thế gian và sống cho Chúa Kitô. Cha vẫn
nhớ lời Chúa Kitô: "Ta nói thật cùng các
con, hễ các con làm bất cứ sự gì cho một
trong những anh em nhỏ bé nhất của Ta,
là các con đã làm cho chính Ta".
Vừa đặt chân lên Molokai, Cha Đamianô liền
nhận ra là ngài phải tìm cách để cung cấp
nhu cầu vật chất cho dân, để họ
có thể mở lòng đón nhận sự trợ
giúp tinh thần. Với lòng hăng hái sẵn có,
ngài liền bắt tay vào việc.
Dù với bao hy sinh và cố gắng, việc làm
của ngài đã gặp phải nhiều chống
đối, nhất là về phía những thành
phần thuộc ban y tế của đảo,
nhóm này hầu hết là những người ghét
đạo Công Giáo. Nhưng vì ý kiến chung của
mọi người, nên họ không thể đuổi
Cha Đamianô đi được. Vì thế, họ
đã nghĩ ra một cách là đặt ra cho ngài
hai sự lựa chọn, một là phải rời
đảo ngay, hai là phải ở lại vĩnh
viễn, chứ không được đi về,
để khỏi truyền bệnh cùi sang người
khác. Họ nghĩ rằng chắc chắn ngài
sẽ bỏ đi ngay. Nhưng họ đã lầm,
vì Cha không chịu bỏ đi. Cha sẽ ở
lại bao lâu Thánh Ý Chúa còn muốn Cha ở lại.
Và ngài đã ở lại 16 năm, tức là cho
đến lúc ngài tắt thở vì bệnh cùi.
Trong suốt thời gian phục vụ tại
Molokai, một trong những thánh giá nặng nhất
Cha phải vác là không thể lãnh nhận Bí tích
Hoà giải, vì không còn vị linh mục nào khác
trên đảo. Truyện kể rằng, có một
lần Cha đã chèo thuyền ra một chiếc
tàu trên đó có một vị linh mục. Ngài đã
xin để vị linh mục được
phép vào bờ để ban phép giải tội
cho ngài. Nhưng lời yêu cầu của Cha đã
bị từ chối, thế là Cha đã phải
xin lãnh nhận bí tích giải tội ngay tại
chỗ, bằng cách xưng thú tội to tiếng
để vị linh mục trên tàu có thể nghe
được.
Cũng trong thời gian ở Molokai, Cha Đamianô
đã xây dựng nhiều nhà thờ cũng như
nhiều nhà cửa cho dân chúng. Ngài đã xin các
tổ chức Kitô giáo, Công giáo cũng như Tin
lành, trợ giúp về tài chính. Ngoài ra ngài cũng
luôn sẵn sàng phân phát đồ ăn và áo mặc
cho mọi người. Chính tay ngài đã băng
bó vết thương cho bệnh nhân, thử những
cách chữa trị mới, xây dựng các nhà mồ
côi cho trẻ em. Để các bệnh nhân có việc
làm, Cha đã lập các hiệp hội, các đoàn
thể. Và khi có người chết, không những
Cha cầu nguyện cho họ mà còn đóng quan
tài để chôn cất họ.
Ngài đã hết mình phục vụ nhóm người
xấu số này, nhưng vì tính hăng hái và thái
độ cứng rắn của Cha, cũng như
vì lòng ghen tị của những người ngoài
Công Giáo, và vì thiếu phương tiện truyền
thông, Cha đã gặp phải nhiều chống
đối. Tuy nhiên, Cha cũng đã làm cho nhiều
người phải thán phục, nhất là trong
những năm cuối đời của
ngài. Cả những anh em trong Dòng của ngài cũng
đã lên tiếng phản đối ngài. Chính
điều này đã làm cho Cha phải đau khổ
nhiều hơn là chứng bệnh cùi hành hạ
thân thể.
Trong những năm cuối đời, Cha Đamianô
đã có thêm được một số người
trợ giúp trong việc săn sóc các bệnh nhân.
Trong số đó có "Thầy Giuse" Ira Dutton.
Thầy Dutton đã đến Molokai vào năm
1886 để phụ giúp Cha, và Thầy đã ở
lại đây trong suốt 44 năm trường.
Thầy có ý đến đây để đền
bù lại những tội lỗi trong thời
niên thiếu. Ngoài ra có Thầy James Scott, người
Ái Nhĩ Lan, là một y tá, Thầy đã đến
giúp Cha trong 8 tháng cuối đời của Cha.
Thêm vào đó có linh mục Lambert Conrady đã đến
đảo Molokai năm 1888. Sau khi Cha Đamianô
qua đời, Cha Conrady đã trở thành một
bác sĩ, và sang Trung Hoa để làm việc trong
một trại cùi tại đó. Nhưng niềm
an ủi lớn lao nhất cho Cha Đamianô là mấy
tháng trước ngày Cha qua đời, 3 nữ
tu Dòng Phanxicô đã đến để thay Cha
săn sóc các em mồ côi. Trong thời gian này, một
chương trình đã được hoạch
định để xây cất một khu vực
mới cho các trẻ nữ; và một trong những
lời yêu cầu cuối cùng của Cha Đamianô
là xin các Sơ săn sóc cả các trẻ nam.
Sau khi Cha chết, nhiều người đã thi
nhau đả kích cuộc sống của Cha. Nhưng
cũng có người bênh vực Cha. Sau khi đọc
một bài báo kịch liệt đả kích lối
sống của Cha Đamianô, văn sĩ Robert
Louis Stevenson, một tín hữu phái Tin lành Calvin,
đã viết một bài dài và thật cảm động
để biện hộ cho Cha.
Tuy nhiên không ai có thể chối cãi được
rằng Cha Đamianô đã thực hiện được
nhiều công trình để giúp người cùi
tại Molokai. Hơn thế nữa, mọi người
cùi trên thế giới phần nào cũng phải
mang ơn Cha, vì gương hy sinh anh hùng của
Cha đã khiến thế giới phải chú ý
đến những con người khốn cùng
này, và nêu gương cho nhiều người noi
theo.
Án phong thánh cho Cha Đamianô đã được
chính thức chuyển về Rôma năm 1955, đến
năm 1977, Cha đã được tuyên phong lên
bậc Đáng Kính. Và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đã đích thân đến Brussels, Thủ đô
Bỉ quốc, để cử hành lễ phong
Chân Phước cho Cha Đamianô de Veuster vào ngày
4 tháng 6 năm 1995.
|
|