|
|
Biên soạn:
Rev. John, CMC |
|
Đấng
Đáng Kính Zepherin
Namuncura
Vị
tù trưởng trẻ tuổi, luôn tha thiết
đến phần rỗi của bộ lạc.
(1886-1905)
Từ ngày mở mắt chào đời Zepherin
Namuncura được tiền định trở
nên người lãnh đạo của bộ lạc
Araucano thuộc miền Pampas, nước Á Căn
Đình. Zepherin là người con thứ 8 trong
12 anh chị em của ông tù trưởng bộ
lạc, ông Manuel Namuncura. Sau này, lúc đã đến
tuổi thành niên, vì có khả năng, và nhất
là với trí thông minh, anh đã được
chọn để thay Cha lãnh đạo bộ
lạc hiếu chiến và hung dữ này. (Theo phong
tục, một người trong gia đình sẽ
kế vị, nhưng không buộc phải là con
trưởng). Nhưng, Zepherin đã dùng cuộc
đời ngắn ngủi để tự đào
luyện mình trở nên một người lãnh
đạo tinh thần. Khát vọng của anh
là có thể hướng dẫn dân tộc mình
đến tin thờ một Thiên Chúa chân thật.
Không lâu sau ngày Zepherin sinh ra, bộ lạc Araucano,
dưới sự lãnh đạo của ông Manuel,
đã mở một cuộc tấn công dữ
dội sau cùng chống lại quân thực dân Âu
Châu đang muốn thôn tính đất nước
ông. Cả hai bên đều có những hành động
thật dã man đối với nhau. Sau cùng, tướng
Julio Roca, Tổng trưởng Bộ Quốc Phòng
Á Căn Đình, đã nhất quyết tiến
quân với một đoàn binh hùng hậu với
ý định tiêu diệt bộ lạc Araucano.
Trong trận chiến chớp nhoáng này, quân lính
giết được 2000 người mọi
trong đó có cả vợ và 4 người con ông
Manuel Namuncura. Để tránh khỏi bị tiêu
diệt, chỉ có một cách là đầu hàng.
Qua cuộc điều đình của một vị
linh mục Dòng Sa-lê-diêng, người ông Manuel tin
tưởng, một hiệp ước đã
được thành lập: Họ chịu mất
vùng đất thuộc về bộ lạc, và
tù trưởng của họ sẽ được
làm đại tá trong quân đội Á Căn Đình.
Hiệp ước này lại được sửa
đổi năm 1894, lần này cả bộ
lạc bị đẩy xa hơn về hướng
tây, đến một vùng thung lũng đất
rất xấu gần Alumine, thuộc miền
núi Andes.
Khi Zepherin được 2 tuổi, ông Manuel trao
con ông cho một vị linh mục Dòng Sa-lê-diêng,
Cha Dominic Milanesio, và thưa với Ngài rằng
xin dâng người con này, người lãnh tụ
tương lai của dân tộc, để được
giáo hoá trong tôn giáo của người da trắng.
Tại giếng Rửa tội, vị linh mục
đã đặt tên thánh cho em là Zepherin, để
kính nhớ một vị Giáo Hoàng tử đạo
vào thế kỷ thứ ba. Tên "Zepherin"
có nghĩa là "gió", nên rất có thể là
vị linh mục này mong rằng vị lãnh đạo
tương lai của dân Araucano sẽ là một
luồng gió mát dập tắt ngọn lửa chiến
chinh trong tâm hồn của bộ lạc này.
Năm 1897, ông Manuel quyết định thi hành
quyền làm tướng trong quân đội của
ông, và ông đã đem Zepherin, lúc này mới 11 tuổi,
để yêu cầu cho em được gia nhập
trường võ bị El Tigre. Ông Manuel có ý cho con
ông vào đây để học được
những binh pháp của người da trắng.
Nhưng không may, Zepherin lại là một trẻ
mọi duy nhất trong trường, nên các bạn
học có những thái độ tàn nhẫn đối
với em. Zepherin buồn sầu đến nỗi
bắt đầu gầy đi và bị bệnh.
Sau đó, theo lời đề nghị của
Cha Dominic, Zepherin được chuyển đến
một trường của Dòng Sa-lê-diêng ở
Buenos Aires.
Tại trường mới, Zepherin chăm chỉ
học hành, nên so với các bạn học, điểm
của em cũng trên trung bình. Dù vậy, mỗi
lần nói đến sách vở, Zepherin không phải
là người sáng trí cho lắm, nhưng theo lời
thầy giáo của em, Zepherin là người thật
"hiếu hoà". Và dù là phải vất vả
lắm mới giữ được những
chương trình và kỷ luật, vì đã quá
quen với đời sống tự do, Zepherin
luôn sống vui tươi với chúng bạn.
Khi được hỏi em ưa thích điều
gì nhất tại trường, Zepherin trả
lời: "Nhà thờ và đồ ăn,"
nhưng em vẫn than phiền rằng em vẫn
không được ăn "bánh" tại
bàn thờ. Mãi đến năm Zepherin 12 tuổi,
chú "tù trưởng" tương lai này mới
được dùng "của ăn" này.
Một ngày nọ, đang trong lúc giảng bài,
thầy giáo của em thường thấy em nhìn
ra ngoài cửa sổ, và giống như đang
mơ mộng gì đó. Nhưng mỗi lần
ông hỏi Zepherin câu nào, em đều có thể
trả lời ngay, nên ông không thể trách em điều
gì được. Dù vậy, ông cũng không cho
em ngồi gần cửa sổ nữa. Sau giờ
học đó, Zepherin xin thầy giáo cho phép em được
trở về chỗ cũ. Khi hỏi tại
sao, em nói rằng khi ngồi gần cửa sổ
em có thể thấy ngọn đèn chầu đang
cháy gần Chúa Giêsu trong nhà thờ. Dĩ nhiên,
sau khi hiểu được ý của em, thầy
giáo liền chiều theo ý muốn của em.
Là một người thích thiên nhiên, nên Zepherin
cũng rất yêu chuộng thể thao. Em cưỡi
ngựa thật giỏi, và có biệt tài về
môn bắn cung. Đôi tay khéo léo của em thường
bận bịu luôn với việc làm cung và tên
cho chúng bạn và cho chính mình; đôi khi các bạn
của em tổ chức cuộc thi bắn cung,
và người được chỉ định
làm trọng tài chính là Zepherin.
Trong thời gian trú học tại đây, cha của
Zepherin có đến thăm em một lần, và
cha em được coi là một vị thượng
khách. Cha con được những ngày thật
hạnh phúc bên nhau. Khi ông Manuel ra về, ông đã
cho Zepherin 10 đồng với lời căn dặn
là để dùng vào những việc em thích. Vì
cũng như các trẻ khác tại trường,
Zepherin thật là nghèo. Quần áo Zepherin mặc
thường là những quần áo cũ được
chuyển xuống từ những người
anh, nên với 10 đồng này, em có thể mua
một bộ quần áo mới. Vì thế, vị
linh mục coi sóc em thật ngỡ ngàng khi thấy
em đem số tiền đó đến cha ngay
sau khi cha em ra về, để xin Ngài dùng vào việc
trang hoàng toà Đức Mẹ. Nhưng cha không
nhận và nói rằng đó là tiền để
cho em dùng việc riêng của em. Em liền thưa
với cha rằng nếu số tiền đó
được dùng vào việc tôn kính Đức
Mẹ, thì em sẽ cảm thấy hạnh phúc
hơn. Zepherin còn thêm là em muốn Đức Mẹ
thật sự trở nên Nữ Vương của
dân tộc em.
Dù tính tình dễ dãi và chân thành của Zepherin
làm cho em trở thành một học sinh dễ mến,
nhưng đôi lúc bạn bè của em cũng vô
ý nói những điều làm cho Zepherin rất đau
lòng. Một lần nọ, trong khi nói chuyện
về dân mọi, một bạn học của
em vô ý đã hỏi Zepherin xem thịt người
có mùi vị gì? Không cầm hãm được nỗi
buồn trong lòng, Zepherin đã cúi mặt xuống
và để hai hàng lệ tuôn rơi trên gò má. Dù
vậy, Zepherin đã không muốn trách người
bạn vô tình này; em liền tiếp tục câu
chuyện, nhưng không trả lời câu hỏi
của bạn.
Ngày tháng trôi đi thật mau, Zepherin được
17 tuổi, và cũng đã đến lúc phải
xa mái trường đã dày công dạy dỗ anh
trong những năm qua. Zepherin được
hỏi sau này muốn làm gì và Zepherin trả lời
là muốn làm linh mục để có thể đem
đạo chân thật đến với dân tộc
của anh, và mở trường học cho các
trẻ em thuộc bộ lạc Araucano. Đức
Cha Cagliero và linh mục Giám đốc Dòng Sa-lê-diêng
rất mến chàng thanh niên đầy nghị
lực này, nên sau khi cho Zepherin biết là chương
trình học linh mục không phải dễ dàng,
đã sắp xếp để cho Zepherin nhập
tiểu chủng viện tại Viedma.
Tại chủng viện, Thầy Zepherin được
mọi người quý mến. Thầy tham dự
các cuộc chơi thể thao cũng như săn
bắn để giải trí, cũng như chăm
chỉ học hành, nên không lâu Thầy đã đứng
thứ nhì trong lớp. Thầy cũng rất
thích dùng các lá bài để làm ảo thuật.
Zepherin luôn nhớ lời một vị linh mục
truyền giáo tại quê hương Thầy
đã nói: "Hãy phụng sự Chúa trong vui tươi".
Thêm vào việc học hành và giải trí, trong thời
gian này Thầy Zepherin cũng rất tấn tới
trên đường nhân đức. Thầy thường
quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể để
cầu nguyện cho dân tộc Thầy. Vị
"tù trưởng" tương lai này vẫn
không thể quên nguồn gốc của mình, vì
Thầy mãi mãi là một người dân mọi.
Một việc sùng kính Thầy ưa thích nhất
là lần hạt Mân Côi, cũng là để cầu
nguyện cho dân tộc Thầy. Một trong những
người bạn cùng lớp sau này đã nói:
"Trong sáu tháng sống bên cạnh Zepherin, tôi
thấy Thầy làm sống lại tất cả
những nhân đức mà tôi đã đọc
được trong đời sống của
Dominic Savio".
Vào ngày 24 tháng 9 năm 1903, được phép Cha
Giám Đốc, Thầy Zepherin tổ chức một
cuộc rước tôn kính Đức Mẹ Thương
Xót. Tối hôm đó, Zepherin lên giường với
thân xác thật mệt nhọc sau một ngày làm
việc. Lúc tỉnh dậy, Zepherin thấy mình
bị ho ra máu. Một chứng bệnh đang
từ từ tiêu diệt bộ lạc của
Thầy, giờ đây cũng không dung tha cho Thầy:
Zepherin đã bị bệnh ho lao.
Vừa khi biết được tình trạng
sức khoẻ của Zepherin, Đức Cha liền
cho Thầy vào bệnh viện Viedma. Trong thời
gian nghỉ bệnh, vị tuyên úy bệnh viện
nói về Zepherin như sau: "Tù trưởng
trẻ tuổi này rất ít nói chuyện. Chúng
tôi luôn có cảm tưởng là Zepherin sống
trong sự cầu nguyện liên lỉ. Zepherin
không bao giờ tỏ dấu bất nhẫn hay
chán nản. Với một nụ cười trên
môi, Zepherin cám ơn mọi người đã giúp
đỡ Thầy, và tuân theo bất cứ lời
chỉ dẫn nào".
Đến tháng 4 năm 1904, Đức Thánh Cha
Piô X cất nhắc Đức Cha Caliegro lên Tổng
Giám Mục, và triệu Ngài về Rôma. Nhân tiện,
Đức Tổng Giám Mục cũng hỏi Zepherin
có muốn theo Ngài đi Rôma, và ở lại đó
để tiếp tục chương trình học
linh mục kông. Vì Ngài hy vọng thời khí ấm
áp sẽ giúp cho sức khoẻ của Zepherin.
Sau một tháng trên biển cả, Đức Tổng
Giám Mục và Thầy chủng sinh trẻ đã
đặt chân lên vùng đất Âu Châu. Đối
với Zepherin, mọi sự đều thật
lạ lùng, nhưng điều làm Zepherin chú ý nhất
là bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu
Giúp trong Vương cung Thánh đường tại
thành Turinô. Bức ảnh này như nam châm, lôi kéo
Zepherin đến cầu nguyện để xin
sự phù trợ cho dân tộc của Thầy.
Vị linh mục coi sóc Zepherin trong khi Thầy
học tại Turinô đã có những lời sau
đây nói về Zepherin: "Lần nào tôi muốn
tìm Thầy, tôi cũng thấy Thầy cầu
nguyện trước ảnh Đức Mẹ
Hằng Cứu Giúp". Khi hỏi Thầy cầu
nguyện với ý chỉ gì, Thầy luôn trả
lời, "Con cầu cho đồng bào của
con".
Tại Turinô, Zepherin được hân hạnh
chứng kiến vài biến cố quan trọng.
Zepherin được chứng kiến cuộc
di chuyển thi hài Thánh Gioan Bosco; và cùng với Đức
Tổng Giám Mục Cagliero, được yết
kiến tư với Đức Thánh Giáo Hoàng Piô
X. Trong một lần triển lãm về truyền
giáo tại Turinô, Zepherin đã mặc bộ đồ
dân da đỏ để triển lãm y phục
của dân tộc mình. Tư cách và sự tài khéo
của Thầy khiến cho nhiều người
phải chú ý, trong số đó có một mệnh
phụ đã xin Thầy hướng dẫn đi
xem các đồ vật được trưng
bày. Mệnh phụ đó chính là Hoàng hậu nước
Ý.
Trong thời gian đầu, Zepherin theo học
ở một chủng viện tại Turinô. Cha
giám đốc đã nói về Thầy: "Thầy
có một trái tim nóng cháy tình yêu Chúa. Đó là một
trái tim vàng, không thấy sự dữ gì nơi
người khác. Thật là một hạnh phúc
được nghe Thầy nói về Thiên Chúa và
Đức Mẹ. Thầy yêu Chúa như chúng ta
yêu mẹ chúng ta... nồng nàn, mạnh mẽ,
như Thầy luôn ở trước tôn nhan Thiên
Chúa". Nhưng thật không may, khí hậu của
Turinô không ích lợi gì cho sức khoẻ của
Thầy, nên Thầy đã được chuyển
về một chủng viện cách Rôma một
vài dặm.
Đến tháng 3 năm 1905, bệnh tình của
Zepherin trở nên trầm trọng. Thầy xuống
cân một cách mau chóng, và Thầy cảm thấy
rất đau đớn. Dù vậy, sự hiền
lành và vui tươi vẫn không rời khỏi
cặp mắt của Thầy. Về thời
gian này, Cha linh hướng của Thầy viết
như sau: "Mỗi ngày sức khoẻ của
Thầy mỗi sa sút, nhưng không bao giờ Thầy
bất mãn. Thầy đau đớn, nhưng
luôn hăng hái can đảm ôm ấp thánh giá của
mình".
Thầy Zepherin được chuyển đến
một bệnh viện do các sư huynh tại
Rôma điều khiển. Ở đây Thầy
can đảm chấp nhận mọi thánh giá đau
đớn và luôn dùng tràng hạt Mân Côi để
cầu nguyện cho đồng bào. Chúa đã gọi
Thầy về ngày 11 tháng 5, bên giường có
mấy sư huynh hiện diện cầu nguyện
cho Thầy. Thầy Zepherin được mai táng
tại Rôma, nhưng sau đó, vì lời yêu cầu
của dân trong bộ lạc, thi hài của Thầy
được đưa về Patagonia vào năm
1924, và được chôn cất tại trường
Fortin Mercedes của Dòng Sa-lê-diêng. Thầy Zepherin
được Đức Thánh Cha Phaolô VI nâng lên
bậc Đáng Kính năm 1972.
|
|