|
|
Biên soạn:
Rev. John, CMC |
|
Thánh
Nữ Phanxica
Xaviê Cabrini, M.S.C.
Phục
vụ tha nhân qua việc từ thiện bác ái.
(1850-1917)
Mặc dù lúc mở mắt chào đời, Maria
Phanxica Cabrini sinh thiếu tháng và mắc phải
một chứng bệnh hiểm nghèo, Mẹ Frances
Xavier Cabrini sau này đã trở thành một trong
những vị truyền giáo hoạt động
hăng say vào bậc nhất trong Giáo hội. Mẹ
đã thành lập 67 cơ sở từ thiện
bác ái và tu viện cho Dòng. Thêm vào sức hoạt
động phi thường này, Mẹ sống
một cuộc đời thánh thiện đến
nỗi chỉ 28 năm sau khi qua đời, Mẹ
đã trở thành người công dân Mỹ đầu
tiên được tôn phong lên bậc hiển thánh.
Bé Phanxica sinh ngày 15 tháng 7 năm 1850 tại San Angelo,
Lombardy, nước Ý. Cha mẹ đạo đức
của bé, ông Agostino và bà Stella, đã vội vàng
xin cho bé được rửa tội, vì sợ
bé không sống nổi. Phanxica là người con
út trong số 13 người con. Trong số các
anh chị, chị Rosa là người đặc
biệt để ý đến bé Phanxica và cũng
là người có nhiều ảnh hưởng
nhất trên bé.
Khi Phanxica lên 13 tuổi, em được nghe một
vị truyền giáo nói về việc truyền
giáo tại Trung Hoa. Từ ngày đó, Phanxica bắt
đầu nuôi mộng ước một ngày nào
đó cũng sẽ trở thành một nhà truyền
giáo, bất chấp sự chế nhạo của
các chị khi họ biết mộng ước
này của em. Cũng từ ngày đó, môn địa
lý trở thành môn học Phanxica ưa thích nhất.
Phanxica theo học nội trú tại trường
của các Sơ Dòng Thánh Tâm tại Arluno. Tại
đây, Phanxica theo học nghành sư phạm. Sau
khi ra trường, Phanxica dạy vài năm trong
trường làng, và dùng những giờ còn lại
chăm sóc các bệnh nhân nghèo. Phanxica tiếp tục
mong muốn được theo đuổi ơn
gọi tu trì, nhưng hai dòng đã chối không
nhận vì sức khoẻ của Chị. Khi Phanxica
được 24 tuổi, Đức Cha và Cha
xứ đã xin Chị đến giúp các trẻ
nữ tại Nhà Chúa Quan Phòng ở Codogno. Nhưng
tại đây, Phanxica đã bị một số
phụ nữ đối xử cách tàn tệ.
Dưới hoàn cảnh đau khổ đó, Chị
đã cố gắng để luyện tập
đức khiêm nhu và cố gắng tiến tới
trên đường nhân đức. Phanxica đã
ở lại đây sáu năm, cho đến ngày
Đức Cha giáo phận Lodi đóng cửa cơ
sở này. Không lâu sau, trong khi tiếp Phanxica, Đức
Cha đã nói với Chị, "Con vẫn luôn
mong muốn làm nhà truyền giáo. Cha không thấy
có Dòng nữ nào lo việc đó. Sao con không thành
lập một Dòng lo việc truyền giáo?"
Lời đề nghị của Đức Cha
cho một người âm thầm và một phụ
nữ trẻ yếu đuối như Phanxica
để thành lập một dòng tu, nhất là
giữa thời kỳ có nhiều nhóm chống
tôn giáo đang nổi lên phá phách các dòng tu, quả
là một lời đề nghị điên cuồng.
Nhưng sau một giây phút thinh lặng, và không
một lời trình bày về sự khó khăn
của công việc này, Phanxica đã thưa với
Đức Cha, "Con sẽ tìm nơi ở".
Những ngày đầu của Tu hội các Nữ
Tu Truyền Giáo Thánh Tâm thật là đơn sơ
và nghèo nàn. Từ ngày lập Dòng, Mẹ Phanxica
đã thêm tên Xaviê vào tên của mình, để tôn
kính vị Thánh tông đồ miền Ấn độ.
Tu viện đầu tiên của Mẹ Cabrini là
một tu viện bỏ trống của dòng Phanxicô.
Trong đêm đầu tiên tại căn nhà mới
này, Mẹ và bảy nữ tu trẻ đầu
tiên đã phải nguyện kinh trong đêm tối,
vì chưa có đèn điện. Thay vì giường,
họ nằm ngủ trên đống cỏ khô.
Thánh lễ đầu tiên đã được
cử hành vào ngày 14 tháng 11 năm 1880 trong một
căn phòng tạm sửa làm nhà nguyện.
Không lâu sau, nhiều thiếu nữ từ các vùng
lân cận đã đến gia nhập dòng mới.
Những lời chỉ bảo khôn ngoan hiền
từ, thêm vào tình thương yêu của Mẹ
dành cho các chị em, và lòng nhiệt thành của
Mẹ đối với việc truyền giáo,
đó là những yếu tố lôi kéo nhiều
ơn gọi mới.
Trong thời gian đầu, dù tài chính còn eo hẹp,
nhưng nhờ Mẹ tin tưởng vào Chúa Quan
Phòng, các sơ vẫn luôn có được lòng
tin tưởng vô biên nơi Thiên Chúa. Vì quá nhiều
ơn gọi, Mẹ đã phải mở thêm ba
tu viện mới. Tại Milanô, các sơ đã
mở một nhà để giúp đỡ các thiếu
nữ theo học tại đại học.
Sau Milanô, Mẹ Cabrini muốn mở tu viện
tại Rôma. Khi được biết ý định
của Mẹ, một người bạn và cũng
là cố vấn của Mẹ đã xin Mẹ
hãy cân nhắc cho chín chắn, kẻo nên trò cười
cho thiên hạ. "Mẹ có điên không? Xin
Mẹ hãy để việc này cho các thánh làm!"
Nhưng dù gặp nhiều chống đối
và dù dòng mới không có tài chính để mở
trụ sở tại Rôma, Mẹ Cabrini và một
chị dòng đã đến Rôma xin được
yết kiến Đức Thánh Cha. Tại Rôma,
Mẹ không được gặp Đức Thánh
Cha, nhưng được nói chuyện với
vị đại diện của ngài, Đức
Hồng Y Parocchi. Sau khi được biết
Mẹ Cabrini muốn mở một tu viện tại
Rôma, Đức Hồng Y muốn biết dòng của
Mẹ có đủ điều kiện để
mở nhà ở Rôma hay không. Khi ngài hỏi Mẹ
có đủ tài chính, hoặc có người nào
đứng ra bảo trợ cho Dòng hay không, Mẹ
đã từ tốn thưa lại là không có. Đức
Hồng Y cảm thấy hơi khó xử, dù ngài
nhìn thấy con mắt của Mẹ bày tỏ
đầy lòng tin tưởng. Ngài đã đề
nghị với Mẹ hãy trở về và vài năm
sau hãy trở lại. Mẹ liền đến
một nhà thờ gần đó và trong nguyện
cầu bày tỏ tất cả tấm lòng của
mình lên Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, Mẹ được
tiếp kiến Đức Hồng Y một lần
nữa. Ngài hỏi Mẹ có sẵn sàng vâng lời
không. Mẹ mau mắn đáp lại, "Con luôn
sẵn sàng". Ngài liền cười và
nói, "Vậy thì không phải Mẹ sẽ mở
một nhà, nhưng là hai nhà ở Rôma.
Đến đầu năm 1889, Đức Thánh
Cha Lêô XIII gọi Mẹ đến. Ước
mơ làm nhà truyền giáo đã đến lúc được
thành tựu, nhưng không phải là sang miền
Viễn Đông. Đức Thánh Cha Lêô sai Mẹ
sang Mỹ Châu để phục vụ những
người di dân Ý nghèo khổ tại Hoa Kỳ.
Không một chút chần chờ, Mẹ Cabrini và
sáu nữ tu khác liền lên đường và đến
Nữu Ước vào tháng Ba năm 1889. Mẹ
và các sơ được hứa là sẽ có sẵn
nhà ở. Trong đêm đầu tiên tại Mỹ,
Mẹ và các sơ ở trong một căn nhà tạm
trú tại phố Tàu. Dù rất mệt và vẫn
còn bị ảnh hưởng của say sóng, các
sơ phải ngồi dựa vào thành ghế để
nghỉ, vì giường quá bẩn thỉu và đầy
côn trùng.
Sau thánh lễ sáng hôm sau, các sơ đã vào chào
Đức Tổng Giám Mục. Đức Cha đã
xin lỗi Mẹ và các sơ vì chương trình
mở một cô nhi viện cho các trẻ Ý đã
thất bại, và Ngài đã viết thư báo
cho các sơ hãy ở lại Ý, nhưng thư đó
đến quá trễ. Ngài liền khuyên Mẹ
và các sơ hãy trở về Ý. Nhưng Mẹ đã
thưa với Đức Cha, "Thưa Đức
Cha, con không thể làm như vậy. Chúng con được
lệnh Toà Thánh để đến đây, và
vì thế, con phải ở lại."
Ba tháng sau, khi Mẹ trở lại Ý, Mẹ Cabrini
đã mở được một cô nhi viện
và một trường học. Cho đến lúc
chết, Mẹ đã vượt trùng dương
25 lần, lập cơ sở trên tám thành phố
tại Hoa Kỳ và cả ở Trung và Nam Mỹ.
Trong mọi nơi Mẹ đến, nhiều
trường học, cô nhi viện, nhà thương,
và các cơ sở từ thiện bác ái từ từ
mọc lên. Nơi những người bệnh
và người nghèo, Mẹ Cabrini nhìn thấy Chúa
Kitô. Mẹ đã cố gắng hết sức
để giúp đỡ họ trong tình thần
cũng như vật chất qua những công việc
tình thương này.
Mẹ đã nhập quốc tịch Mỹ tại
Seattle vào năm 1909.
Qua bao nhiêu công việc cũng như mọi thành
quả trong việc truyền giáo, Mẹ Cabrini
luôn giữ được một sự bình an
tâm hồn. Mẹ không bao giờ quên rằng Mẹ
đã được tạo dựng để
phụng sự một mình Thiên Chúa và để
làm theo Thánh Ý Người. Khẩu hiệu của
Mẹ là "Trong NGƯỜi, tôi có thể làm
được mọi sự". Trong một
lần tĩnh tâm Mẹ đã viết những
lời sau đây bày tỏ tấm lòng hoàn toàn lệ
thuộc vào Thánh Ý Chúa: "Lạy Chúa Giêsu, con
thiết tha yêu mến Chúa... Xin ban cho con một
trái tim to bằng cả vũ trụ... Xin dạy
bảo con những gì Chúa muốn con làm, và hãy thực
hiện nơi con những gì Chúa muốn."
Do đời cầu nguyện của Mẹ, Chúa
cũng ban thưởng nhiều ơn đặc
biệt cho Mẹ. Truyện kể rằng có một
sơ bị bệnh giãn tĩnh mạch. Bác sĩ
khuyên sơ nên luôn đeo đôi bít tất dài. Một
ngày nọ, sơ đã lấy được
đôi bít tất của Mẹ Cabrini, sơ đeo
vào và liền được lành bệnh. Ngày hôm
sau, Mẹ Cabrini thật thắc mắc khi thấy
sơ nọ bước đi một cách bình thường.
Khi được hỏi, sơ đã thú thật
là đã đeo đôi bít tất của Mẹ.
Mẹ Cabrini liền nói với sơ, "Chắc
chị không đơn sơ đến nỗi
nghĩ rằng đôi bít tất của tôi đã
chữa bệnh cho chị. Tôi vẫn thường
đeo nó mà có được gì đâu. Đức
tin của chị đã chữa chị đấy.
Đừng nói cho ai biết nhé."
Mẹ Cabrini đã qua đời trong bình an tại
phòng riêng của Mẹ trong Nhà Thương Columbus,
thành phố Chicago vào năm 1917. Lúc còn sống,
Mẹ đã chối không nhận làm được
một phép lạ nào; nhưng sau khi qua đời,
Chúa đã ban nhiều ơn cho những người
đã nhờ lời cầu bầu của vị
tông đồ truyền giáo nhiệt thành này.
Trên 150,000 đơn thỉnh nguyện và chứng
tích ơn lạ nhận được từ
mọi lớp người trên khắp thế
giới đã được đệ lên Đức
Thánh Cha. Mười một năm sau khi Mẹ
qua đời, Đức Thánh Piô Xi đã chỉ
định một vị cáo thỉnh viên, và đã
xin Đức Hồng Y Mundelein, Tổng Giám Mục
Chicago, mở cuộc điều tra phong thánh.
Đến năm 1938, Mẹ đã được
phong chân phước, chỉ 21 năm sau khi Mẹ
qua đời, đây là một kỷ lục trong
thời đại mới. Giáo hội đã tôn
phong Mẹ lên bậc hiển thánh vào ngày 7 tháng
6 năm 1946.
|
|